Nhận biết trẻ mắc bệnh quai bị
Bệnh quai bị do virus gây ra (thuộc nhóm Paramyxovirus). Đây là bệnh khá phổ biến, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi, đặc biệt tập trung ở trẻ từ 6-10 tuổi.
Bệnh thường lành tính, tự khỏi trong 1-2 tuần nhưng đôi khi có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm, đặc biệt là biến chứng trên cơ quan sinh dục.
Bệnh quai bị rất dễ lây qua đường hô hấp khi nước bọt của người nhiễm bệnh phát tán ra ngoài không khí khi nói chuyện, ho, hắt hơi. Sau khi vào cơ thể, virus sẽ bám vào niêm mạc mũi, miệng, kết mạc, sau đó theo đường máu xâm nhập nội tạng và gây các triệu chứng bệnh.
Người bệnh có thể lây cho người khác trước cả khi biết mình mắc bệnh, khoảng 1 tuần trước khi tuyến mang tai sưng lên, kéo dài đến 2 tuần sau khi thấy sưng tuyến mang tai, 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai là thời gian lây mạnh nhất. Bệnh dễ phát thành dịch vào mùa đông xuân, ở những nơi tập trung đông người như nhà trẻ, trường học, khu tập thể…
Các triệu chứng và biến chứng do bệnh quai bị
Trước khi phát bệnh 1-2 ngày, trẻ sẽ cảm thấy khó chịu trong người. Trẻ khởi phát bệnh bằng triệu chứng sốt từ 38-39 độ C, kéo dài trong 3-4 ngày, mệt mỏi, ăn ngủ kém, nhức tai, đau đầu, cảm giác ớn lạnh, sợ gió.
Sau sốt 24-28 giờ, xuất hiện triệu chứng viêm tuyến mang tai, lúc đầu chỉ sưng một bên, sau 1-2 ngày sưng tiếp bên kia, thường sưng cả 2 bên, ít khi sưng 1 bên. 2 bên sưng không đối xứng, 1 bên sưng to, 1 bên sưng nhỏ. Khi tuyến mang tai sưng to có thể làm mất rãnh trước và sau tai gây biến dạng mặt, mặt phình to, cằm xệ, cổ bành.
Da vùng tuyến mang tai bị sưng căng, bóng, không đỏ, sờ nóng, đau, ấn không lõm. Trẻ đau hàm khi há miệng, khi nhai, nuốt, cảm giác đau lan ra tai, họng viêm đỏ, sưng hạch góc hàm.
Virus quai bị ngoài gây viêm tuyến nước bọt còn có thể biến chứng gây viêm ở những cơ quan khác như:
Viêm tinh hoàn có thể gặp trong quai bị, đặc biệt là những trẻ trong tuổi dậy thì. Viêm tinh hoàn có thể xuất hiện 1-2 tuần sau khi sưng tuyến mang tai hoặc xuất hiện đơn độc không kèm sưng tuyến mang tai. Bệnh nhân sốt cao trở lại, thỉnh thoảng có rét run, đau nhức đầu, buồn nôn, nôn.
Tinh hoàn bị sưng đau, to gấp 3-4 lần bình thường, da bìu đỏ, mào tinh hoàn đôi khi cũng sưng to. Bệnh nhân thường sưng một bên tinh hoàn nhưng một số trường hợp có thể sưng cả hai bên. Sau 4-5 ngày thì bệnh nhân sẽ hết sốt nhưng sau khoảng 2 tuần, tinh hoàn mới hết sưng.
Viêm não do quai bị biến chứng với các biểu hiện như: sốt cao, đau đầu, nôn, co giật, rối loạn ý thức, cứng cổ, có thể xảy ra đơn độc hoặc sau khi viêm tuyến nước bọt 3-10 ngày.
Tiêm vắc-xin là biện pháp phòng bệnh quai bị hiệu quả. – Ảnh: Trần Minh
Viêm tụy cấp: Thường xảy ra vào tuần thứ hai (từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 10) khi tình trạng sưng tuyến mang tai đã giảm. Bệnh nhân quai bị triệu chứng trong viêm tụy cấp là sốt trở lại, đau thượng vị, đầy bụng, chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy…
Các bệnh lý khác có thể gặp do quai bị là: viêm buồng trứng, viêm cơ tim, viêm đa khớp, viêm tuyến giáp bán cấp, viêm phổi…
Tiêm chủng để phòng bệnh
Video đang HOT
Khi trẻ có các dấu hiệu của bệnh quai bị, cha mẹ cần đưa trẻ đến các cơ sở y tế để được khám và điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Bệnh quai bị hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, điều trị bệnh chủ yếu là nghỉ ngơi, điều trị triệu chứng và chăm sóc cơ thể…
Trẻ cần được cách ly, không dùng chung các vật dụng như khăn mặt, bát đũa, bàn chải đánh răng, chườm ấm bên má bị sưng có thể giúp trẻ giảm đau. Không được đắp lá, bôi vôi vào vùng bị sưng vì có thể gây bỏng da, làm tăng nguy cơ bội nhiễm.
Cho trẻ uống nhiều nước, sữa, nước hoa quả để bù nước và giúp trẻ hạ nhiệt độ. Cho trẻ ăn những thức ăn lỏng dễ nuốt như cháo, súp… Đặc biệt, trẻ cần nằm nghỉ ngơi, đi lại nhẹ nhàng, không được chạy nhảy nô đùa vì có thể làm nặng hơn biến chứng ở tinh hoàn.
Tiêm vắc-xin là biện pháp phòng ngừa quai bị ở trẻ em một cách chủ động, hiệu quả. Vắc-xin quai bị thường ở dạng vắc-xin phối hợp sởi-quai bị-Rubella giúp ngừa 3 bệnh nguy hiểm trong chung 1 mũi vắc-xin. Trẻ cần được tiêm đủ 2 mũi vắc-xin để có được hiệu quả bảo vệ tốt nhất.
Quai bị, căn bệnh có thể dẫn đến vô sinh nếu chủ quan
Bệnh quai bị tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới, viêm buồng trứng ở nữ giới.
1. Bệnh quai bị là gì?
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do virus quai bị (Mumps virus) thuộc họ Paramyxoviridae gây nên. Bệnh quai bị lây theo đường hô hấp và dễ lây nhất từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.
Nguồn lây từ người đang mắc bệnh lây cho người lành chưa có kháng thể chống virus quai bị, thông qua nước bọt hoặc dịch tiết mũi họng chứa virus khi người bệnh hắt hơi, ho, nói chuyện...
Virus này có thể tồn tại khá lâu ở bên ngoài cơ thể. Ở nhiệt độ 15 - 200 độ C, virus này có thể tồn tại khoảng 30-60 ngày và sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng ở nhiệt độ trên 560 độ C hoặc dưới tác động của các hóa chất diệt khuẩn.
Theo bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm - Thần kinh, Bệnh viện Nhi Đồng 1, bệnh quai bị thường xảy ra vào mùa đông-xuân, cao điểm là từ tháng 12 đến tháng 2 hàng năm.
Bệnh quai bị tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới và có thể dẫn đến vô sinh.
Các tuyến nước bọt trong cơ thể
2. Triệu chứng của bệnh quai bị
Các triệu chứng đầu tiên của bệnh quai bị có thể xuất hiện giống với triệu chứng của những cơn cảm cúm thông thường.
Thời kỳ ủ bệnh quai bị kéo dài 14-24 ngày, thời kỳ này không có triệu chứng lâm sàng. Sau thời gian đó, virus phát triển ở niêm mạc miệng rồi xâm nhập vào máu gây viêm các cơ quan.
Thời kỳ khởi bệnh, người bị bệnh quai bị suy nhược, chán ăn, ngủ kém kèm đau đầu, đau họng và đau góc hàm.
Trong dấu hiệu của bệnh quai bị, có 3 vị trí đau điển hình là góc thái dương đến hàm, điểm mỏm xương chũm và góc xương hàm dưới.
Thời kỳ toàn phát, tuyến nước bọt ở mang tai bị sưng to, thường sưng trước một bên, sau vài ngày sẽ tiếp tục sưng bên còn lại. Ở một số trường hợp, tuyến nước bọt sưng to có thể gây biến dạng khuôn mặt dẫn đến khó khăn trong việc nhai, nuốt.
Các triệu chứng đi kèm: sốt 38-39 độ C trong 3 ngày đầu của bệnh, có khi lên tới 40 độ C. Sốt cao gặp trong viêm màng não hoặc viêm tinh hoàn, đau đầu, đau bụng, khó nuốt, khó nói.
Viêm tuyến nước bọt trong bệnh quai bị không hóa mủ trừ khi có bội nhiễm thêm vi khuẩn khác. Vùng da ở nơi bị sưng thường căng, không đỏ nhưng khi sờ vào sẽ thấy nóng và bệnh nhân kêu đau.
Thời kỳ hồi phục, bệnh nhân mắc quai bị sau khi hết sốt kéo dài khoảng 10 ngày, sưng tuyến nước bọt sẽ giảm dần, các triệu chứng đau họng, khó nuốt giảm và từ từ khỏi hẳn.
3. Biến chứng của bệnh quai bị
Bệnh quai bị ở người lớn tuy ít gặp nhưng thường có nguy cơ nặng và có nhiều biến chứng hơn trẻ em. Các biến chứng có thể gặp phải như:
Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn
Với người sau tuổi dậy thì mắc bệnh quai bị, biến chứng này có tỷ lệ 20-35%, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày hoặc xuất hiện trước hoặc đồng thời.
Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày. Khoảng 50% số trường hợp tinh hoàn bị teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng, dẫn đến vô sinh.
Nếu có biểu hiện viêm tinh hoàn, cần đến ngay cơ sở y tế để kiểm tra và điều trị. Trong trường hợp khả năng sinh tinh khó phục hồi, bệnh nhân có thể đến các bệnh viện chuyên khoa điều trị vô sinh để được lưu trữ tinh trùng khi chất lượng tinh trùng chưa giảm nhiều.
Viêm buồng trứng
Biểu hiện đau bụng, rong kinh, có tỷ lệ 7% ở nữ giới sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh.
Với phụ nữ mang thai, việc mắc quai bị có thể gây sảy thai, sinh non hoặc thai chết lưu trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Nhồi máu phổi
Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến. Một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng có thể dẫn đến hoại tử mô phổi.
Viêm tụy
Viêm tuỵ là một biểu hiện nặng của quai bị, có tỷ lệ mắc là 3-7%. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.
Các tổn thương thần kinh
Tỷ lệ quai bị gây ra biến chứng viêm não là 0,5%. Bệnh nhân có các hiện tượng như: người bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, thị giác... Tổn thương thần kinh sọ não có thể dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm đa rễ thần kinh.
Biến chứng khác
Viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm cơ tim, viêm thần kinh thị giác, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi...
Chích ngừa vắc xin để chủ động phòng chống bệnh quai bị
4. Điều trị bệnh quai bị
Hiện nay, bệnh quai bị chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nguyên tắc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng và biến chứng.
Bệnh nhân mắc quai bị sau khi có biểu hiện bệnh cần cách ly tối thiểu 2 tuần, nằm nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế vận động, ăn thực phẩm lỏng trong những ngày đầu. Thông thường, mất khoảng 10 ngày để bệnh nhân khỏi bệnh và miễn dịch suốt đời với bệnh quai bị.
Acetaminophen hoặc ibuprofen có thể giúp giảm sốt và giảm đau. Lưu ý không dùng aspirin cho trẻ nhỏ bởi nguy cơ có thể mắc phải hội chứng Reye.
Có thể xoa dịu cơn đau bằng cách chườm lạnh lên hàm và hạ sốt bằng việc đắp khăn ấm. Uống nhiều nước hơn (tránh nước ép trái cây vì kích thích sản xuất nước bọt, có thể gây đau), súc miệng bằng nước muối ấm.
Cách ly người bệnh với người lành. Cả người chăm sóc và người bệnh cần đeo khẩu trang y tế đúng tiêu chuẩn để hạn chế lây lan virus.
5. Phòng bệnh quai bị thế nào?
Theo bác sĩ Trương Hữu Khanh, để phòng bệnh quai bị, cách tốt nhất là tiêm vắc xin. Không chỉ trẻ em mà cả người lớn, đặc biệt là phụ nữ có kế hoạch mang thai, đều nên tiêm phòng quai bị. Hiện vắc xin quai bị thường được phối hợp với vắc xin sởi, rubella trong cùng 1 chế phẩm (MMR) để giảm số lần tiêm và đơn giản hóa quy trình tiêm phòng.
Hạn chế tiếp xúc trực tiếp người bệnh, không dùng chung dụng cụ ăn uống, đồ dùng cá nhân với người bệnh, khi tiếp xúc phải mang khẩu trang. Vệ sinh nhà cửa sạch sẽ, lau rửa đồ chơi của trẻ, dạy trẻ rửa tay bằng xà phòng, biết che miệng khi ho, hắt hơi và rửa tay ngay sau đó. Tránh thói quen không tốt như bôi, đắp nóng vùng tuyến mang tai.
Khi có những biểu hiện của bệnh quai bị, bạn nên đi khám bác sĩ để được chẩn đoán chính xác vì có nhiều nguyên nhân khác có thể gây viêm tuyến nước bọt ngoài virus quai bị.
Vaccine sởi đơn và vaccine kết hợp sởi - quai bị - rubella: Nên chọn tiêm loại vaccine nào mới tốt? Dù cho đã biết việc tiêm phòng là cách tốt nhất giúp ngăn ngừa bệnh sởi hiệu quả, nhiều người vẫn còn phân giữa vaccine sởi đơn và vaccine kết hợp sởi - quai bị - rubella, liệu tiêm loại vaccine nào mới tốt? Trên thị trường hiện nay có 2 loại vaccine phòng sởi là vaccine sởi đơn và vaccine kết hợp...