Nhạc sĩ Hoàng Hiệp hôn mê
Chiều 3/1, gia đình nhạc sĩ “Lá đỏ” cho biết ông đã được người nhà đưa vào cấp cứu tại BV Nhân dân Gia Định sáng 2/1 sau khi thấy triệu chứng ho ra máu. Hiện ông đang trong tình trạng hôn mê.
Anh Lưu Hà Xuyên, con trai của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, cho biết: “Sau tai nạn bị gãy chân, ba tôi bị bệnh tai biến, 3 lần tái bệnh dẫn đến việc phải nằm một chỗ suốt 3 năm qua. Đến hôm qua ông ho ra máu, gia đình đã đưa ông vào bệnh viện cấp cứu. Gia đình quyết định “còn nước, còn tát” và cầu nguyện cho ba tôi sẽ vượt qua được”.
Video đang HOT
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp tên thật là Lưu Trần Nghiệp, bút danh là Lưu Nguyễn. Ông sinh ngày 1-10-1931 ở xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới – An Giang. Ông tham gia cách mạng vào năm 1945, tham gia vào đoàn Tuyên truyền lưu động Long Xuyên, sau chuyển về đoàn văn công và phân hội Văn nghệ Long Châu Hà.
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp bắt đầu sáng tác từ năm 1948, tuy nhiên những tác phẩm thật sự để đời của ông chỉ xuất hiện trong những giai đoạn sáng tác sau đó vài thập kỷ.
Giáo sư Ca Lê Thuần, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TPHCM, cho biết: “Việc tập kết ra miền Bắc như một khởi điểm cho cảm hứng của ông, để đến năm 1957 ông cho ra đời bài hát Câu hò bên bờ Hiền Lương, sáng tác chung với nhạc sĩ Đằng Giao, được xem là điểm khởi đầu cho sự nghiệp sáng tác chuyên nghiệp của ông. Trong vòng 20 năm sống ở Hà Nội ông đã viết hơn 100 bài hát, nhiều bài trong đó tiêu biểu cho dòng nhạc cách mạng thời kỳ chống Mỹ như Lá đỏ, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Cô gái vót chông, Ngọn đèn đứng gác…”.
Ngoài sáng tác ca khúc, Hoàng Hiệp còn viết nhạc cho kịch nói như: Người ven đô, Màu giấy mới, Xa thành phố yêu dấu…; nhạc cho các vở cải lương Thái hậu Dương Vân Nga, Tiền và Nghĩa; viết nhạc cho phim truyện và phim tài liệu: Cánh đồng mơ ước, Bản nhạc người tù, Mùa gió chướng, Nơi gặp gỡ của tình yêu, Biệt động Sài Gòn... Ông còn là dịch giả cuốn Nhạc lý cơ bản của Spasspbine và là tác giả của nhiều sách giáo khoa âm nhạc.
Năm 2000, nhạc sĩ Hoàng Hiệp được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Câu hò bên Bến Hiền Lương, Cô gái vót chông, Ngọn đèn đứng gác, Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây, Viếng Lăng Bác, Nhớ về Hà Nội.
Theo NLĐ
Cỏ mực - vị thuốc quý ở ngay quanh ta
Cỏ mực Eclipta prostrata L. (E. Alba (L.) Hassk) là loài mọc hoang khắp nơi ở nước ta. Đó là loài cây nhỏ thân có lông lá mọc đối, hình xoan dài, có lông hai mặt, hoa trắng nhỏ, đặc điểm nổi bật của hoa này là khi vò nát có màu đen như mực - nên mới có tên gọi là "Cỏ mực". Dân gian thường gọi là "Cỏ nhọ nồi", còn trong các đơn thuốc Đông y thì thường gọi là "Hạn liên thảo", "Mặc hạn liên", "Kim lăng thảo".
Các nghiên cứu trong YHHĐ đã phát hiện thấy trong cỏ mực có saponin, tanin, chất đắng, caroten, ancaloit, tinh dầu, Vitamin E, Vitamin A.
Cỏ mực có những tác dụng dược lý như sau:
Cầm máu: Chất tanin trong Cỏ mực có tác dụng làm tăng tốc độ đông máu. Các nhà khoa học Trung Quốc đã làm thực nghiệm: cắt đứt động mạch đùi chó, dùng bột Cỏ mực tán mịn đắp lên chỗ đứt, ấn nhẹ vào thì thấy có tác dụng cầm máu tốt.
Diệt khuẩn, tiêu viêm: có tác dụng diệt một số tụ cầu khuẩn, trực khuẩn bạch hầu (Bacillus diphtheria), trực khuẩn viêm ruột (Bacillus enteritidis) và có tác dụng nhất định đối với amip.
Tăng cường miễn dịch, ức chế sự phát triển của tế bào ung thư: Kích hoạt hệ thống miễn dịch, đặc biệt là đối với tế bào limphô T (T-lymphocytes) có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, đặc biệt trong ung thư dạ dày.
Dưỡng da, đen tóc: Cỏ mực có tác dụng cải thiện quá trình tuần hoàn máu ngoài da (đặc biệt là da đầu), giúp cho da thịt, đầu tóc được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, nhờ vậy da dẻ trở nên mịn màng, râu tóc thêm đen mượt.
Theo Đông y: Cỏ mực có vị ngọt, chua tính mát vào các kinh Can và Thận có tác dụng tư âm (nuôi âm), bổ Thận làm mịn da, đen tóc, chắc răng lương huyết (mát máu), chỉ huyết (cầm máu). Sách Tân Tu Bản Thảo viết: "vết thương đang chảy máu, đắp Cỏ mực vào, máu sẽ lập tức cầm lại lấy nước cốt bôi lên lông mày và tóc thì sẽ mọc tốt hơn". Còn sách Thiên Kim Nguyệt Lệnh viết: "lấy nước cốt Cỏ mực, trộn với nước gừng và mật, uống vào sẽ làm cho râu tóc đang bạc hoá đen". Hiện tại, Cỏ mực thường được sử dụng để chữa da thô nháp, da mặt đen sạm, tóc bạc sớm, răng đau lung lay, âm hư huyết nhiệt, chóng mặt, hoa mắt, nôn ra máu, đại tiện ra máu, can thận âm hư...Và dưới đây là một số công dụng cụ thể:
Chữa râu tóc sớm bạc, tóc rụng, chóng mặt, hoa mắt do can thận âm hư tổn:
- Bài 1: Cỏ mực 15g, Sinh địa 15g sắc nước uống mỗi ngày 1 tễ chia làm 2 lần uống vào buổi sáng và buổi chiều. Uống liên tục 30 ngày (1 liệu trình) nghỉ vài hôm rồi lại tiếp tục.
- Bài 2: Cỏ mực 25g, Hoa cúc trắng 15g, Sinh địa 15g sắc lấy nước, bỏ bã, uống thay nước trà hàng ngày. Mỗi ngày một tễ liên tục 30 ngày.
- Bài 3: Cỏ mực 15g, Nữ trinh tử 15g, Thục địa 10g, Hà thủ ô chế 15g sắc lấy nước, mỗi ngày 1 tễ liên tục 30 ngày.
Chữa ho ra máu: Cỏ mực 25g, Bạch cập 20g, A giao 10g. Đem Cỏ mực và Bạch cập sắc lấy nước, đổ vào bát, sau đó cho A giao vào trộn đều. Mỗi ngày 1 tễ, chia ra 2 lần uống trong ngày liên tục trong 7 ngày.
Chữa sỏi thận, tiểu tiện ra máu: Cỏ mực 5g, cỏ Mã đề (Xa tiền thảo) 15g, Đường trắng vừa đủ ngọt. Đem Cỏ mực và Mã đề sắc lấy nước khi uống rót nước thuốc ra bát, sau đó cho thêm Đường vào cho đủ ngọt. Mỗi ngày một tễ, chia ra nhiều lần uống thay trà trong ngày liên tục trong 20 ngày.
Mũi thường chảy máu: Cỏ mực 25g, Ngó sen 20g. Sắc lấy nước chia 2 lần uống vào sáng và chiều liên tục trong 20 ngày.
Chữa đao thương, chảy máu: Lấy Cỏ mực đem giã nát đắp lên chỗ bị thương. Cũng có thể đem Cỏ mực phơi khô, tán mịn, rắc lên vết thương.
Hỗ trợ trong điều trị chứng giảm tiểu cầm máu: Cỏ mực 10g, Nhân sâm 5g (nếu không có thay bằng Đẳng sâm 12g), Gạo tẻ 50g, Đường trắng vừa đủ. Nhân sâm thái thành lát mỏng, hấp chín. Cỏ mực rửa sạch, sắc lấy nước để nấu cháo. Sau khi cháo chín, cho Sâm vào, thêm chút Đường cho đủ ngọt. Dùng mỗi ngày 1 lần, ăn thay bữa điểm tâm buổi sáng liên tục trong 5 ngày.
Phòng và chữa viêm da khi làm ruộng nước: Lấy Cỏ mực tươi 1 nắm (khoảng 50g), rửa sạch, vò nát rồi xát lên chân và tay cho đến khi màu da chuyển sang tím đen nhạt. Chờ một lát cho da khô, có thể lại xuống ruộng nước làm việc được. Thời trước, những người thợ nề hay lấy Cỏ mực xát lên tay để chữa chứng bỏng rát do vôi vữa gây nên. Chất tanin và một số hoạt chất khác trong Cỏ mực có tác dụng làm săn và phòng viêm nhiễm ngoài da rất tốt. ở Trung Quốc, các thầy thuốc đã chế ra một loại cao mềm từ Cỏ mực, chuyên dùng để phòng viêm da khi làm việc dưới ruộng nước.
Phụ nữ ngứa âm đạo: Lấy Cỏ mực tươi khoảng 100g, sắc nước để rửa ngoài âm đạo. Có thể thêm chút Câu đằng vào sắc cùng càng tốt.
Theo SKDS
Những dấu hiệu cảnh báo bệnhung thư Chảy máu trực tràng Dự báo: ung thư đường ruột Chảy máu đường ruột có biểu hiện là đại tiện kèm theo máu, cần phân biệt đại tiện kèm theo máu và bệnh trĩ. Bệnh trĩ là sau khi đi ngoài kèm theo máu, còn u bướu hay chảy máu đường ruột là khi đi ngoài trộn lẫn với máu. Thực ra, triệu...