Nhà giáo được phép có “đạo đức nghề nghiệp” khác nhau, chuyện gì vậy?
Với 4 thông tư đã ban hành, cơ quan quản lý giáo dục đã chính thức quy định giáo viên hạng thấp, tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp sẽ thấp hơn giáo viên hạng cao.
Ảnh minh họa
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong các Thông tư 01, 02, 03, 04 “Quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, các trường phổ thông công lập” thì ba hạng giáo viên sẽ đòi hỏi ba mức “đạo đức nghề nghiệp” khác nhau.
Có mấy vấn đề mà người viết, không hiểu, xin nêu lên để quý bạn đọc cùng bàn luận.
Cũng xin nói thêm, người viết chỉ dám đề nghị “bạn đọc bàn luận” bởi như ý kiến của Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam Vũ Ngọc Hoàng phát biểu:
“Thứ duy nhất Hiệp hội có là tư vấn, mà ngày nay không phải ai cũng thật sự cần tư vấn. Có thể người nói chưa đủ giỏi và người nghe thì đã “giỏi” lắm rồi, dù có thể mỗi người có một cách giỏi khác nhau”. [1]
Mặc dù thế, người viết vẫn hy vọng có ai đó ở tầm “giỏi lắm rồi” dành chút thời gian chừng năm mười phút, lướt qua xem phía trước “đèn ôtô ” có cái gì.
Chẳng hạn, theo quy định trong Thông tư số 04/2021/TT-BGDĐT (Thông tư 04) ban hành ngày 02/02/2021 thì tiêu chuẩn về “đạo đức nghề nghiệp” giáo viên hạng 3 dạy khối trung học phổ thông bao gồm 04 tiêu chí, trong đó tiêu chí thứ 4 là:
“Thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức nhà giáo; quy định về hành vi, ứng xử và trang phục”.
Có thể thấy với tiêu chí thứ 4 này, ngành Giáo dục và Đào tạo đã có sẵn “các quy định về đạo đức nhà giáo; quy định về hành vi, ứng xử và trang phục”.
Nếu điều này là đúng thì còn cần quy định thêm “đạo đức nghề nghiệp” trong Thông tư số 04/2021/TT-BGDĐT để làm gì?
Hay là cho đến nay chưa có văn bản chính thức nào quy định về “đạo đức nhà giáo”?
Hỏi thế chứ thực ra đã là nhà giáo, hẳn nhiều người biết Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT quy định về “Đạo đức nhà giáo”, được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành từ năm 2008.
Có điều tra cứu thông tin trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì thấy mục Đạo đức nghề nghiệp (Điều 4) lại hình như có gì đó không ổn cả về điều khoản lẫn cách sử dụng từ ngữ, ảnh chụp màn hình cho thấy:
“3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục”. [2]
Ảnh chụp màn hình nội dung Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT
Trong quyết định nêu trên, mục “Đạo đức nghề nghiệp” có 04 tiêu chí, mục “Lối sống, tác phong” có 06 tiêu chí, mục “Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo” có 11 tiêu chí, tổng cộng có tới 21 tiêu chí liên quan đến “đạo đức nhà giáo”.
Đến năm 2018 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số 1737/CT-BGDĐT về việc tăng cường quản lý và nâng cao đạo đức nhà giáo theo Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT.
Phải nêu thêm như thế để thấy quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về “đạo đức nhà giáo” cho đến nay vần còn hiệu lực.
Vậy phải chăng các chuyên viên soạn thảo Thông tư 01, 02, 03, 04 của Bộ cảm thấy “đạo đức nghề nghiệp” (của nhà giáo) và “đạo đức nhà giáo” là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau nên cần đưa thêm “đạo đức nghề nghiệp” vào Thông tư mới?
Xin nêu thêm một khía cạnh khác.
Tiêu chuẩn “Đạo đức nghề nghiệp” áp dụng với hai cấp học là Giáo dục mầm non và Giáo dục phổ thông. Giáo viên hạng 3 hai cấp học này (gồm 05 bậc học là nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) đều phải thỏa mãn 04 tiêu chí giống nhau. Muốn thăng hạng, giáo viên dạy cả năm bậc học này đều phải thêm tiêu chí mới.
Video đang HOT
Ví dụ với giáo viên trung học phổ thông hạng 2 Thông tư 04 quy định:
“Ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên trung học phổ thông hạng III, giáo viên trung học phổ thông hạng II phải luôn luôn gương mẫu thực hiện các quy định về đạo đức nhà giáo”.
Với giáo viên trung học phổ thông hạng 1 Thông tư 04 quy định:
“Ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên trung học phổ thông hạng II, giáo viên trung học phổ thông hạng I phải là tấm gương mẫu mực về đạo đức nhà giáo và vận động, hỗ trợ đồng nghiệp thực hiện tốt các quy định về đạo đức nhà giáo”.
Vậy là với bốn Thông tư đã ban hành, cơ quan quản lý giáo dục đã chính thức quy định giáo viên hạng thấp, tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp sẽ thấp hơn giáo viên hạng cao hơn.
Số liệu trong Tờ gấp giáo dục và đào tạo năm 2019 cho thấy đội ngũ giáo viên hai cấp Mầm non và Trung học phổ thông khoảng 1,2 triệu người, chiếm hơn 50% tổng số viên chức cả nước. Số cán bộ quản lý giáo dục vào khoảng 150.000 người (không kể đại học, cao đẳng).
Vấn đề không ít người muốn biết là quy định về “đạo đức nghề nghiệp” trong bốn thông tư mới ban hành chỉ áp dụng cho nhà giáo. Vậy cơ quan ban hành chính sách có nên ban hành thêm “Quy định về đạo đức nghề nghiệp” với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục?
Hệ thống quản lý giáo dục Việt Nam hiện cũng gồm ba cấp, cấp huyện quản lý từ bậc mầm non đến trung học cơ sở, cấp tỉnh quản lý khối trung học phổ thông và cấp bộ quản lý tất cả, từ mầm non đến đại học và sau đại học.
Những người làm việc trong các cơ quan quản lý giáo dục hầu hết là công chức, nếu chỉ xét nhân sự cấp trung cao thì sẽ có ba bậc là chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp.
Lẽ nào khi chuyển bậc chuyên viên, các nhân sự này không phải xem xét “đạo đức nghề nghiệp” như nhà giáo khi chuyển hạng. Nói cách khác, cùng trong ngành Giáo dục, một khi đã quy định đạo đức nghề nghiệp nhà giáo (viên chức) thì cũng cần quy định đạo đức nghề nghiệp cán bộ quản lý giáo dục (công chức).
Thực lòng, người viết chỉ muốn Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa lại các Thông tư 01, 02, 03, 04 theo hướng bỏ đi quy định về “đạo đức nghề nghiệp” bởi dù là nhà giáo cắm bản hay dạy tại các trường chuyên, lớp chọn thì “đạo đức nghề nghiệp” vẫn phải như nhau.
Phân loại tiêu chuẩn “đạo đức nghề nghiệp” đối với nhà giáo không biết có phải là dựa vào “tư vấn” của các chuyên viên nhưng có lẽ ý kiến của vị Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam là có lý.
Dù ai tư vấn, dù ai ký thì cuối cùng vẫn là các nhà giáo phải “chịu trách nhiệm thi hành”.
Nếu đây không phải chuyện gây khó dễ cho nhà giáo thì chính xác nó là gì?
Tài liệu tham khảo:
[1] https://giaoduc.net.vn/tin-hiep-hoi/nam-2021-chu-tich-hiep-hoi-gui-gam-3-ky-vong-doi-voi-giao-duc-dai-hoc-post214617.gd
[2]http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?_page=59&mode=detail&document_id=63657
Chiến sĩ thi đua không quá 15%, bao nhiêu giáo viên phổ thông có cửa lên hạng II
Thông tư số 01, 02, 03 và 04/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo khiến giáo viên bậc trung học phổ thông gặp rất nhiều khó khăn trong việc thi/xét thăng hạng
Ngày 2/2/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học phổ thông công lập.
Theo đó, giáo viên muốn thăng hạng từ hạng III lên hạng II thì phải đáp ứng ba tiêu chuẩn về: đạo đức nghề nghiệp; trình độ đào tạo bồi dưỡng; năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
(Ảnh minh hoạ: Lã Tiến)
Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp
Ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên trung học phổ thông hạng III, giáo viên trung học phổ thông hạng II phải luôn luôn gương mẫu thực hiện các quy định về đạo đức nhà giáo.
Cần nhắc lại, quy định về đạo đức nhà giáo được thể hiện ở Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 16/4/2008, gồm những điều sau.
Điều 3. Phẩm chất chính trị
1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.
3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp
1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.
5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.
Điều 5. Lối sống, tác phong
1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.
5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.
Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.
2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác.
5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.
7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng.
9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc; không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường.
11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như: cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại.
Chẳng hạn như, giáo viên vi phạm về tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định, bị học sinh, phụ huynh phản ánh và nhà trường kết luận là đúng thì không đủ điều kiện thăng hạng lên mức cao hơn.
Cánh cửa thăng hạng của giáo viên bậc trung học phổ thông hẹp dần từ năm 2021
Quy định tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên bậc trung học phổ thông hạng II có những điều khó khăn sau đây.
Thứ nhất, nếu phải thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp thì rất nhiều giáo viên bậc phổ thông không đáp ứng yêu cầu về ngoại ngữ - mặc dù đã có chứng chỉ ngoại ngữ hợp lệ.
Ngoại trừ giáo viên giảng dạy ngoại ngữ, còn lại giáo viên bộ môn thì rất ít người có khả năng thi đạt điểm trung bình (5 điểm) vì họ không hề vận dụng ngoại ngữ vào nghiên cứu hay giảng dạy ở bậc phổ thông.
Học sinh được học tiếng Anh từ lớp 1 đến lớp 12 nhưng kì thi tốt nghiệp năm 2020, cả nước có đến 63,13% em đạt điểm dưới trung bình - huống gì giáo viên chỉ học vài ba tháng để lấy chứng chỉ.
Thứ hai, giáo viên cũng khó thỏa một trong ba điều kiện của nội dung thứ 8 về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, đó là được công nhận là chiến sĩ thi đua cơ sở hoặc giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp trường trở lên.
Ví như, để đạt giáo viên dạy giỏi và giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp trường thì mấy khó khăn nhưng không dễ gì để được công nhận chiến sĩ thi đua cơ sở.
Bởi, tỉ lệ chiến sĩ thi đua cơ sở được ấn định cho mỗi đơn vị là không quá 15% và giáo viên phải viết sáng kiến đạt từ loại Khá trở lên.
Con số 15% này thường rơi vào: Hiệu trưởng; hiệu phó; Chủ tịch Công đoàn; trợ lí thanh niên; tổ trưởng/tổ phó chuyên môn; thư kí hội đồng... vì đây (đa phần) là thành phần chấm và bỏ phiếu chọn sáng kiến - thì thử hỏi được bao nhiêu giáo viên lọt vào?
Thứ ba, giáo viên đủ điều kiện thăng hạng nhưng có thể hiệu trưởng không cử tham gia vì trường không có nhu cầu về vị trí việc làm thì cũng đành chịu.
Một giáo viên bậc trung học phổ thông ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh cho biết, năm học 2020-2021 nhà trường không triển khai cho giáo viên làm hồ sơ thăng hạng năm 2021.
"Tôi gửi hồ sơ nhưng hiệu trưởng không nhận, không kí vào bản sơ yếu lí lịch. Tôi định lên Sở Giáo dục hỏi xem hiệu trưởng làm vậy có đúng không nhưng rồi sợ mình không thuận lợi trong công việc nên thôi, coi như xui", giáo viên này ấm ức chia sẻ.
Như thế để thấy rằng, Thông tư mới của Bộ Giáo dục khiến giáo viên bậc trung học phổ thông gặp rất nhiều khó khăn trong việc thi hoặc xét thăng hạng kể từ năm 2021.
Tài liệu tham khảo:
[1]//www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?_page=59&mode=detail&document_id=63657
[2] //luatvietnam.vn/co-cau-to-chuc/thong-tu-04-2021-tieu-chuan-xep-luong-giao-vien-thpt-cong-lap-198083-d1.html?layout=amp
[3] //vietnamnet.vn/vn/giao-duc/pho-diem-mon-tieng-anh-thi-tot-nghiep-thpt-nam-2020-669604.html#:~:text=Theo phổ điểm thi tốt,tỷ lệ 0,07%2
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Hầu hết giáo viên đều có thể phấn đấu lên hạng II mới, đâu chỉ ban giám hiệu Tiêu chuẩn của giáo viên hạng II từ tiểu học trở lên được xếp lương có hệ số 4,0 đến 6,38 sẽ không quá khó, hầu hết giáo viên đều có thể đạt được. Sau khi chùm Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT ban hành và sắp có hiệu lực thì có rất nhiều sự quan tâm của giáo viên việc chuyển xếp...