Nguyên soái Liên Xô đập tan chiến dịch đẫm máu nhất lịch sử của phát xít Đức
Tên tuổi của Nguyên soái Georgy Zhukov vang xa khắp trên thế giới khi ông chỉ huy Hồng quân Liên Xô chặn đứng phát xít Đức ở cửa ngõ Mocsow và sau này là trận Stalingrad mang ý nghĩa quyết định.
Zhukov cưỡi ngựa trắng tại Quảng trường Đỏ.
Ngày 22.6.1941, mặc dù có đã ký với Liên Xô hiệp ước không xâm lược lẫn nhau năm 1939, phát xít Đức vẫn phát động chiến dịch Barbarossa, dồn toàn lực tấn công Liên Xô ở phía đông. Đây được coi là chiến dịch đẫm máu nhất lịch sử nhân loại trong lịch sử, theo History.
Hơn 3 triệu quân Đức đồng loạt tiến vào lãnh thổ Liên Xô từ 3 hướng. 3.000 xe tăng, 2.500 máy bay, cùng 7.000 khẩu pháo đã đổ vào một mặt trận kéo dài hàng ngàn km.
Nhóm quân phía Bắc sẽ tấn công thông qua vùng Baltic và chiếm Leningrad.
Nhóm quân chính sẽ có nhiệm vụ chiếm đóng Moscow và đoàn quân phía Nam sẽ tấn công các khu trung tâm nông nghiệp của Ukraine và chiếm những mỏ dầu ở Caucasus.
Chỉ sau 4 tháng, người Đức đã đã bao vây phía Bắc Leningrad và tiến đến vùng ngoại ô Moscow. Người Đức đã chiếm được 500.000 dặm vuông lãnh thổ Liên Xô với số dân hơn 75 triệu người.
Người giải cứu Moscow
Ngày 14.9.1941, Zhukov được giao chỉ huy tập đoàn quân Leningrad giữa lúc tập đoàn quân phía Bắc của Đức đã vây chặt thành phố.
Trong tuần đầu tiên, ông đã cùng các tướng lĩnh tổ chức lại lực lượng, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của quân Đức. Những sĩ quan chỉ huy kém cỏi cũng như những binh sĩ bỏ chạy khỏi trận tuyến đều bị xử tử. Zhukov ra lệnh bố trí những trận địa pháo mật độ cao che chắn các những hướng chủ yếu và rải mìn dày đặc ở những khu vực có nguy cơ bị tấn công cao, đồng thời tăng cường hệ thống phòng không, đề phòng lính dù Đức.
Zhukov ra lệnh cho các binh sĩ phải tận dụng mọi cơ hội dù là nhỏ nhất để tổ chức phản kích, liên tục quấy rối ở mọi nơi, ngăn cản quân Đức tập trung binh lực tấn công mạnh vào thành phố. Sau đó ông tập hợp một lực lượng gồm 5 vạn người mở một đợt tấn công dữ đội vào mũi tấn công vươn xa nhất của quân Đức ở Leningard, gây thiệt hại nặng cho đối phương.
Zhukov đã thể hiện dấu ấn rõ rệt trong cuộc chiến chống phát xít Đức.
Zhukov nhận ra rằng, khi tập đoàn quân phía nam của phát xít Đức thắng lớn ở Kiev, trùm phát xít Adolf Hitler sẽ thừa thắng đánh thẳng vào Moscow. Lực lượng thiết giáp của Đức ở tập đoàn quân phía bắc sẽ được rút về chi viện cho chiến dịch chiếm Moscow.
Không nằm ngoài dự đoán của Zhukov, tập đoàn quân phía Bắc của phát xít Đức sau khi mất lực lượng thiết giáp thì không thể chiếm được thành phố, khiến Thống chế Wilhelm von Leeb bị Hitler tước quyền chỉ huy. Tháng 10.1941, khi đang làm Tư lệnh Mặt trận Leningrad, lãnh tụ Stalin gọi điện cho Zhukov nói rõ tình hình nguy cấp sát cửa ngõ Moscow ra lệnh cho ông cấp tốc về thủ đô.
Video đang HOT
Ngày 15.11, phát xít Đức mở đợt tấn công lớn thẳng vào Moscow, chỉ còn cách thủ đô Liên Xô khoảng 20km.
Mặc dù chịu áp lực nặng nề, Zhukov vẫn bình tĩnh đánh giá các mũi tấn công của người Đức. Ông nhận ra quân Đức chỉ tập trung tiến công ở hai cánh, nhưng 6 quân đoàn bố trí ở chính diện hầu như không làm gì cả. Zhukov quyết định rút bớt một phần lớn lực lượng ở trung tâm để tăng cường cho hai cánh. Nhờ vậy mà Hồng quân Liên Xô đã không phải tung lực lượng dự bị mà để dành cho cuộc phản công sau này.
Đến khi Hitler muốn đánh thẳng vào chính diện, Zhukov khéo léo huy động lực lượng chống đỡ, chặn đứng tất cả các đợt tấn công của người Đức.
Ở thời điểm đó, tập đoàn quân Liên Xô chỉ có 1,1 triệu người và 774 xe tăng, so với tập đoàn quân trung tâm của phát xít Đức là 1,7 triệu quân và 1.170 xe tăng. Ngày 1.12, Zhukov bất ngờ phát động chiến dịch phản công, sau hai tháng tiêu diệt hơn 500.000 quân phát xít, đánh bật đối phương khỏi Moscow và các vùng lân cận cách khoảng 100-250km.
Lãnh tụ Stalin sau này luôn nhấn mạnh rằng chiến thắng vĩ đại ở Mocsow luôn gắn liền với tên tuổi Zhukov.
Dấu ấn ở Stalingrad
Zhukov trực tiếp kiểm tra khẩu đội súng máy ở Kursk.
Sau thất bại ở cửa ngõ Moscow, Hitler đặt mục tiêu chiếm Stalingrad năm 1942, đánh sâu xuống phía nam để kiểm soát khu vực có trữ lượng dầu mỏ dồi dào, nhằm bù đắp tổn thất. Tướng Friedrich von Paulus, tư lệnh tập đoàn quân số 6 của phát xít Đức dự đoán chiếm được Stalingrad trong 10 ngày. Nhưng người Đức không ngờ rằng họ lại có ngày sa lầy ở Stalingrad lâu đến vậy.
Ở bên kia chiến tuyến, tướng Zhukov chỉ huy Hồng quân Liên Xô lợi dụng khung cảnh đổ nát ở Stalingrad để tạo thành công sự kiên cố chặn đường quân Đức. Giao tranh giữa mùa đông ở Stalingrad diễn ra hết sức khốc liệt, hai bên giành giật từng căn nhà, từ mét vuông lãnh thổ. Giao tranh khốc liệt khiến con số người bỏ mạng mỗi tuần ở cả hai bên lên tới hàng chục ngàn người.
Lãnh tụ Liên Xô thể hiện quyết tâm giữ vững bằng được thành phố mang tên mình nên điều thêm lực lượng chi viện cho Zhukov. Ngày 19.11.1942, Zhukov phát động đợt phản công mang tên Chiến dịch Sao Thiên Vương từ đống đổ nát ở Stalingrad.
Quân Đức đánh giá thấp đợt phản công, khiến tập đoàn quân số 6 không kịp trở tay. Zhukov đã tung vào mặt trận Stalingrad 500.000 người, 900 xe tăng và 1.400 máy bay. Chỉ trong 3 ngày, hơn 200.000 quân Đức bị vây chặt.
Zhukov là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong chiến tranh.
Trong khi đó, Hitler không cho tập đoàn quân số 6 rút lui bằng cách phong tướng Von Paulus làm Thống chế, với mong muốn Paulus không bao giờ được đầu hàng.
Tuy nhiên, thống chế Paulus không có tài thao lược bằng Zhukov, đành chấp nhận hạ vũ khí sau 4 tháng Hồng quân Liên Xô phản công. Ngày 18.1.1943, Zhukov được phong hàm Nguyên soái, là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong chiến tranh.
Các sử gia hiện đại sau này đều cho rằng trận Stalingrad chính là bước ngoặt thay đổi cục diện chiến tranh Xô-Đức mà tướng Zhukov chính là người đóng vai trò quan trọng nhất.
Sau này, Zhukov còn áp dụng chiến thuật xe tăng và những kinh nghiệm ông học được từ trận đánh với người Nhật năm 1939 để đánh bại phát xít Đức trong trận Vòng cung Kursk. Đây cũng là trận đánh xe tăng lớn nhất lịch sử nhân loại
Nguyên soái Zhukov cũng là người chỉ huy Hồng quân Liên Xô tiến vào Berlin. Ngày 1.5.1945, ông chấp thuận tuyên bố đầu hàng của phát xít Đức, chấm dứt chiến tranh ở châu Âu.
Zhukov từng bị lãnh tụ Liên Xô Stalin giáng cấp, đưa đi xa khỏi Moscow nhưng rồi sau này từng được khôi phục quyền lực, trở thành Bộ trưởng Quốc phòng, nhưng điều gì đã khiến Zhukov một lần nữa “rớt đài” chính trị? Bài dài kỳ tới sẽ làm rõ vấn đề trên.
Theo danviet
Vì sao Liên Xô không đánh chiếm Phần Lan trong Thế chiến 2?
Trong Thế chiến 2, Phần Lan thân với phát xít Đức nhưng Liên Xô không đánh chiếm Phần Lan, nhờ vậy về sau có được 1 hàng xóm trung lập thân thiện.
Trong số tất cả các đồng minh của trùm phát xít Đức Hitler, Phần Lan chiếm một vị trí đặc biệt. Cuộc chiến của Phần Lan chống lại Liên Xô kết thúc theo một cách thức khác với các cuộc chiến do Romania, Bulgaria hay Hungary tiến hành. Ba nước sau chịu ảnh hưởng của Liên Xô từ năm 1945 trở đi, còn ở Phần Lan đã không xuất hiện một chế độ XHCN nào thân Liên Xô cả.
Tổng tư lệnh quân đội Phần Lan Carl Gustaf Emil Mannerheim (bên trái) và lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin. (Ảnh: Getty Images, Sputnik, Pixabay).
Việc ban lãnh đạo Liên Xô quyết định không tiến quân vào lãnh thổ Phần Lan và chấm dứt chiến tranh với người Phần Lan vào năm 1944 đã đem lại kết quả là Liên Xô rồi nước Nga hiện đại có được một trong những nước láng giềng tốt nhất, thân thiện nhất ở biên giới trong những năm sau này.
Mặt trận Xô-Phần
Phần Lan chưa bao giờ ký Hiệp ước Ba bên (giữa Đức, Italy và Nhật Bản) và không chính thức thuộc về phe Trục (phe phát xít). Người Phần Lan nhấn mạnh rằng họ khi đó đang phát động một cuộc chiến tranh riêng rẽ chống lại Liên Xô, dù cho Phần Lan đang hợp tác với Đức Quốc xã, nhằm khôi phục lại các lãnh thổ mà họ để mất sau Chiến tranh Mùa Đông. Nhưng trên thực tế, cuộc chiến kế tiếp này lại kéo theo việc binh sĩ Phần Lan tiến sâu hơn vào lãnh thổ Liên Xô hơn cả mức lãnh thổ trước đây của Phần Lan.
Đối với Liên Xô, những động thái ngoại giao này của Phần Lan không đóng vai trò gì cả. Đất nước này khi ấy vẫn bị Liên Xô xem là bên xâm lược và là chế độ bù nhìn của Đệ tam Đế chế (tức phát xít Đức). Mặt trận chống Phần Lan được hiểu đơn giản là Mặt trận Liên Xô-Phần Lan trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.
Vào tháng 6/1941 ước tính liên quân Đức-Phần Lan ở Phần Lan đông tới trên 400.000 người. Dù chiến dịch Barbarossa của Đức được mở vào ngày 22/6/1941, Phần Lan vẫn đợi chờ - họ không tấn công Liên Xô vào thời điểm đó và ngăn người Đức thực hiện điều này từ lãnh thổ Phần Lan.
Tuy nhiên, do quân đội Phần Lan đã vi phạm điều khoản của hiệp ước Moscow 1940 (về chấm dứt Chiến tranh Mùa Đông) bằng việc đổ bộ lên quần đảo Aland phi quân sự hóa và không quân phát xít Đức khởi động sử dụng các sân bay của Phần Lan để ném bom Liên Xô, chiến tranh giữa 2 quốc gia này bắt đầu. Các oanh tạc cơ Liên Xô trút bom xuống Helsinki và những người lính Phần Lan đầu tiên vào ngày 28/6/1941 đã vượt biên giới tiến về thành phố Murmansk của Liên Xô.
Các chiến sĩ Hồng quân. (Ảnh: Public Domain).
Trong cuộc tiến công nói trên, quân đội Phần Lan đã chiếm được những vùng lãnh thổ rộng lớn ở ngoại ô Murmansk nằm ở phía bắc Hồ Onega. Vào ngày 31/8/1941, quân Phần Lan vượt qua biên giới Liên Xô-Phần Lan cũ gần thành phố Leningrad (nay là Saint Petersburg). Thành phố đã bị phong tỏa, đánh dấu sự bắt đầu của cuộc bao vây kéo dài khét tiếng.
Vào tháng 7/1941, Tổng tư lệnh quân đội Phần Lan Carl Gustaf Emil Mannerheim lặp lại chính lời của mình trong cuộc Nội chiến Phần Lan (1918): " Tôi sẽ không tra gươm trở lại vỏ cho tới khi nào Phần Lan và Đông Karelia được tự do".
Ông này hùng hồn nói thêm: " Hỡi anh em binh sĩ! Chiến thắng của các anh em sẽ giải phóng Karelia, chiến công của các anh em sẽ tạo ra một tương lai hạnh phúc và vĩ đại cho Phần Lan".
Tuy nhiên không phải người Phần Lan nào cũng háo hức tham gia cuộc "giải phóng" này. Có những trường hợp mà những người lính đơn lẻ hoặc toàn bộ đơn vị từ chối vượt qua biên giới cũ giữa Liên Xô và Phần Lan để tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô.
Sau bước đột phá ban đầu, đà tiến của quân Phần Lan bị chặn lại và thế trận ở đây được ổn định. Không có thêm chiến dịch nào được tiến hành ở vùng này cho tới năm 1944. Những người lính đã nói đùa về các binh sĩ Liên Xô bảo vệ Leningrad trước quân Phần Lan như sau: "Có 3 đội quân không tham chiến trên thế giới này: Quân Thụy Điển, quân Thổ Nhĩ Kỳ và Tập đoàn quân Xô viết số 23".
Thất bại của phát xít Đức trong trận chiến Kursk đã khiến cho giới lãnh đạo Phần Lan lo lắng sâu sắc. Khi Hồng quân lần lượt giải phóng các vùng lãnh thổ của mình và tiến sát hơn tới Karelia, người Phần Lan bắt đầu ngoại giao con thoi giữa Berlin và Washington, hoặc để nhận thêm trợ giúp quân sự từ người Đức, hoặc là để yêu cầu phía Mỹ làm trung gian đàm phán hòa bình với Liên Xô (phía Mỹ không tuyên chiến với Phần Lan trong Thế chiến 2).
Liên Xô cân nhắc việc đưa quân vào Phần Lan
Vào mùa hè 1944, Hồng quân Liên Xô đánh bật quân Phần Lan khỏi lãnh thổ Karelia. Tuy nhiên sự kháng cự quyết liệt của Phần Lan và những thắng lợi cục bộ của họ, như trong trận Tali-Ihantala, đã khiến ban lãnh đạo Liên Xô suy nghĩ nghiêm túc về việc liệu có đáng phải tiến sâu hơn nữa vào lãnh thổ Phần Lan hay không.
Sử gia Bair Irincheev cho hay: " Ngày nay không thể biết được lãnh tụ Xô viết Stalin muốn gì. Cả năm 1940 lẫn năm 1944 Stalin đều không cố gắng chiếm toàn bộ Phần Lan. Rốt cuộc đây không phải là hướng chiến lược chính... Liệu có đáng để đánh chiếm toàn bộ Phần Lan, từ Helsinki tới Oulu? Mảnh đất này có diện tích tương đương nước Anh, dân cư đông đúc, với nguy cơ nội chiến...".
Sử gia Phần Lan Ohto Manninen cho biết: " Ít nhất là trong các tài liệu quân sự, mục tiêu đặt ra không phải là sáp nhập Phần Lan vào Liên Xô. Mục tiêu là bảo đảm Hạm đội Đỏ có đường đi lại tự do từ Vịnh Phần Lan và giúp Hồng quân có thể tiến công sườn quân Đức ở phía Bắc".
Liên Xô đã tập trung hết sức lực của mình vào mục tiêu chính là đánh chiếm Berlin (thủ đô của Đức Quốc xã) trước người Anh và người Mỹ.
Sử gia Phần Lan Henrik Meinander giải thích: " Phe Đồng minh đã mở một mặt trận thứ 2 chống lại Đức ở Pháp - việc này dọn đường cho một thỏa thuận ngừng bắn giữa Phần Lan, Liên Xô và Anh vào tháng 9/1944".
Theo sử gia Nga Alexey Komarov thì lãnh tụ Liên Xô "Stalin đã tư duy theo lối thực dụng". Komarov nói: " Đối với ông ấy (Stalin), việc giữ cho Phần Lan trung lập, ít nhất là trong thời kỳ lịch sử đó, là điều quan trọng... Ban lãnh đạo Liên Xô muốn biến Phần Lan thành một quốc gia tương đối thân thiện với mình - một dạng vùng đệm giữa Liên Xô và phương Tây".
Vào ngày 19/9/1944, Phần Lan đạt được một thỏa thuận ngừng bắn với Liên Xô và Anh Quốc. Phần Lan nhượng một số vùng thuộc Karelia và Salla cũng như một số đảo nhất định ở Vịnh Phần Lan và Petsamo. Liên Xô được quyền thuê bán đảo Porkkala gần Helsinki làm căn cứ cho hải quân của họ trong 50 năm. Như một cử chỉ thiện chí, Liên Xô đã trao lại bán đảo này cho Phần Lan vào năm 1956.
Liên Xô đã đánh đuổi quân Phần Lan khỏi lãnh thổ của mình nhưng họ quyết định không đẩy vấn đề đi quá xa. Kết quả là, Liên Xô đã có một hàng xóm trung lập và thân thiện, đồng thời là một đối tác kinh tế gần gũi trong các năm tiếp theo.
VOV/RUSSIA BEYOND
Theo VTC
Vì sao phát xít Đức không phá nổi mật mã Liên Xô trong Thế chiến 2? Lực lượng của phe Trục (phe phát xít) chuyên về phá mã đã không tài nào đọc nổi các thông điệp được mã hóa của Liên Xô mà chúng chặn được. Các sĩ quan mật mã Xô viết nằm trong số các tài sản chiến đấu quan trọng nhất trong Thế chiến 2 và Đức Quốc xã đã phải chật vật lùng bắt...