Nguyên nhân sâu xa tham vọng biển của TQ
Biển cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thànhđiều kiện tiên quyếtcủa sự thống lĩnh khu vực.
Truyền thống chiến lược lớn của Trung Quốc là hướng vào lục địa. Ngoại trừ một vài lần dưới thời nhà Nguyên và nhà Minh, nói chung đế chế Trung Hoa vẫn chấp nhận để các thế lực khác chiếm ưu thế trên những vùng biển ngoài khơi Trung Quốc. Sự cùng tồn tại của bá quyền Trung Quốc trên đất liền và vai trò thống trị của ngoại bang trên biển là kết quả của 3 điều kiện chủ yếu, và cả ba đều không còn tồn tại trong thời đại ngày nay.
Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc dễ bị tấ.n côn.g nhất ở phía Bắc và phía Tây, nơi họ phải đối mặt với những đội quân của người du mục Trung Á là những đội quân cơ động nhất và giỏi đán.h thọc sâu nhất của thời bấy giờ. Những đội quân cưỡi ngựa, bắ.n cung này có thể lao tới, xuyên qua và chinh phục toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Những hiểm họa từ những đội quân du mục này lớn hơn hẳn những nguy hiểm từ dân đi biển ở phía Đông và phía Nam, những người cùng lắm chỉ có thể cướp phá các thành phố hay làng mạc dọc theo bờ biển Trung Quốc.
Nhưng kể từ thế kỷ 19, điểm yếu về quân sự của Trung Quốc đã chuyển sang vùng bờ biển. Những đội quân cưỡi ngựa, bắ.n cung của ngày nay là các tàu sân bay, tàu khu trục, và tàu ngầm được trang bị máy bay siêu âm, máy bay tàng hình, máy bay không người lái và tên lửa hành trình. Trong mắt các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc ngày nay, việc kiểm soát biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông đã trở nên tối quan trọng đối với nền quốc phòng và an ninh của Trung Quốc.
Những vùng biển này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế đối với Trung Quốc. Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn toàn tự cung tự cấp và không phải dựa vào ngoại thương để phát triển. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong thời gian gần đây chủ yếu là nhờ hội nhập kinh tế với thế giới bên ngoài.
TQ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép tại thềm lục địa VN. Ảnh: AP
Từ khi phát động “cải cách và mở cửa” vào năm 1979, tỉ lệ phụ thuộc vào ngoại thương của Trung Quốc, tính theo tỉ lệ ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc nội, đã tăng từ 10% lên tới hơn 70%. Bên cạnh sự phụ thuộc này, kể từ năm 1998, Trung Quốc đã là một nước nhập siêu về năng lượng. Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đã chiếm tới 11% tổng năng lượng nước này sử dụng trong năm 2011.
Những số liệu thống kê này cho thấy nền kinh tế Trung Quốc cơ bản sẽ sụp đổ nếu bị cắt đứt các liên kết thương mại với thế giới bên ngoài. Điều khiến cho biển còn quan trọng hơn nữa đối với Trung Quốc là việc phần lớn ngoại thương và năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đều phải vận chuyển qua biển Hoa Đông, biển Đông và eo biển Malacca.
Video đang HOT
Không chỉ có một mình Trung Quốc phải phụ thuộc vào các tuyến đường giao lưu trên các vùng biển này. Thực ra, các biển Đông Á này là huyết mạch của cả châu Á. Hơn một nửa thương mại hàng hóa của khu vực, khoảng một nửa ngoại thương của Trung Quốc, Ấn Độ và Australia, khoảng 80% lượng dầu và khí đốt nhập khẩu của Trung Quốc, 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản, và 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc phải đi qua các vùng biển này. Tầm quan trọng về kinh tế và quân sự của các vùng biển Đông Á đảm bảo rằng không một quốc gia nào ở châu Á ngày nay có thể đạt được uy thế tuyệt đối trong khu vực trước khi trở thành kẻ mạnh nhất về hải quân trên vùng biển Tây Thái Bình Dương.
Có 3 lý do để Trung Quốc trong quá khứ vẫn để cho các nước khác thống lĩnh các vùng biển ngoài khơi của họ. Đôi lúc là do Trung Quốc còn quá yếu không thể thách thức được các cường quốc biển. Nhưng nói chung, những vùng biển này không hề có ý nghĩa quan trọng với Trung Quốc cả về quân sự lẫn kinh tế. Hơn nữa, các thế lực thống trị vùng biển đều chủ động tạo lập quan hệ chư hầu và triều cống với Trung Quốc.
Không một điều kiện nào trong số này là hiện thực của ngày hôm nay và ngày mai. Theo dự đoán, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuối thập kỷ này. Trong khi đó, ngân sách quân sự của Trung Quốc còn tăng trưởng nhanh hơn cả nền kinh tế. Các biển bao quanh Trung Quốc đã trở nên thiết yếu cho sự phát triển và phòng vệ của nước này. Và Hoa Kỳ, cường quốc thống trị trên biển châu Á, sẽ không dễ gì chấp nhận đứng dưới trong một trật tự thế giới do Trung Quốc đứng đầu.
Nhờ có toàn cầu hóa và những công nghệ vũ khí mới, biển cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thành điều kiện tiên quyết của sự thống lĩnh khu vực. Về phần Trung Quốc, sự gia tăng phát đạt của nước này sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận với biển hơn là việc sở hữu thị trường trên đất liền. Nhận thức rõ được những điều này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch đương nhiệm Tập Cận Bình, đã quyết định rằng Trung Quốc cần trở thành “cường quốc biển ở cấp độ toàn cầu”.
600 năm trước, Trung Quốc đã phái một hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của viên thái giám người Hồi là Trịnh Hòa đi vào biển Đông và Ấn Độ Dương để áp đặt kiểm soát lên luồng thương mại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và mở rộng hệ thống chư hầu cho đế chế. Dù rất thành công, các cuộc viễn chinh này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian chưa đến 3 thập kỷ và đã được chứng tỏ là không hề nằm trong quy luật của lịch sử Trung Quốc. Cuối cùng thì Trung Quốc vẫn là một đế chế nông nghiệp, và nhiệm vụ chính của các chuyến đi của Trịnh Hòa chỉ là để phô trương trước những người ngoại bang trong vùng lòng chảo Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Ngày nay, Trung Quốc quay ra hướng biển do sự cần thiết khách quan hơn là vì ý đồ chủ quan muốn phô trương thế lực. Do vậy, sự thay đổi này sâu rễ bền gốc hơn rất nhiều so với các chuyến du hành từ 6 thế kỷ trước. So với những chuyến đi của Trịnh Hòa, sự chuyển hướng nhìn sang phía biển của Trung Quốc hiện giờ sẽ hứa hẹn có nhiều bạo lực hơn và cũng có nhiều ý nghĩa lịch sử hơn.
Sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc bản thân nó không nhất thiết sẽ gây nên mối đ.e dọ.a cho sự thống trị của Mỹ trên các vùng biển châu Á cũng như vai trò của Mỹ trong khu vực. Nhưng việc gã khổng lồ châu Á này xoay trục ra biển có thể sẽ đặt dấu chấm hết cho uy lực hải quân tuyệt đối của Mỹ trên vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà hệ quả là làm suy yếu trật tự toàn cầu do Mỹ đứng đầu.
Theo Lê Hoàng Giang
Vietnamnet
*Bài được đăng theo Nghiencuuquocte.net, tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt. Tác giả bài viết, Tiến sĩ Alexander L. Vuving là Phó Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương tại Honolulu, Hoa Kỳ.
Chủ động nghiên cứu biển để phát triển bền vững
Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam khá phong phú và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong điều tra, nghiên cứu, khai thác tiềm năng biển là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế.
Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam khá phong phú và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong điều tra, nghiên cứu, khai thác tiềm năng biển là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế, phòng tránh thiên tai, bảo vệ tài nguyên và môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
Khẳng định chủ quyền
Việt Nam có vị trí địa lý kinh tế - chính trị đặc biệt quan trọng ở Đông Nam Á với vùng biển trải dài và nguồn tài nguyên vô cùng phong phú. Nhiều chuyên gia nhận định, với những lợi thế và tiềm năng của biển, sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai gần của đất nước cần gắn liền với lợi thế và tiềm năng to lớn của biển.
Nghiên cứu khai thác tiềm năng biển nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước. Ảnh: Duy Khương - TTXVN
Do đó, hoạt động khoa học công nghệ (KHCN) điều tra, nghiên cứu khoa học biển đóng vai trò to lớn, cung cấp các luận cứ khoa học về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên biển, điều kiện môi trường biển... cho việc hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch khai thác, sử dụng biển, đảo, góp phần tích cực phát triển kinh tế, phòng tránh thiên tai, bảo vệ tài nguyên môi trường, góp phần khẳng định chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
PGS.TS Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho biết: "Các kết quả nghiên cứu luôn được sử dụng làm cơ sở khoa học để đàm phán, đấu tranh phân định ranh giới trên biển và xác định chủ quyền lãnh hải, nhất là đối với vịnh Bắc Bộ, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vùng cửa sông Bắc Luân... Các tờ bản đồ địa hình trên vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa được biên vẽ theo phân công của tổ chức IOC/WESTPAC (Phân ban Hải dương học liên Chính phủ khu vựcTây Thái Bình Dương) góp phần khẳng định chủ quyền và ở mức độ nhất định, đó là sự công nhận quốc tế đối với các vùng biển - đảo này của Việt Nam".
Các tài liệu về hình thái địa hình, cấu trúc địa chất biển... là căn cứ khoa học quan trọng góp phần ranh giới ngoài thềm lục địa, giúp đàm phán xác định chủ quyền trên biển. Nhiều nghiên cứu đã hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện môi trường sống của bộ đội, nhân dân trên các đảo.
Cùng đó, KHCN biển đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế - dân sinh biển, vùng ven bờ biển và hải đảo Việt Nam. Ví dụ như ứng dụng KHCN, các đặc trưng kỹ thuật, quy phạm công trình thềm lục địa, độ an toàn và tuổ.i thọ công trình biển, khai thác và vận chuyển an toàn dầu thô; nâng cao hiệu quả đán.h bắt xa bờ, cải tạo môi trường nuôi, nhân giống và phát triển các giống loài có giá trị cao. Đặc biệt, những nghiên cứu KHCN biển giúp bảo vệ tài nguyên môi trường biển và ngăn ngừa, phòng tránh thiên tai.
Cần chú trọng đầu tư
Không thể phủ nhận những thành quả KHCN biển đã đạt được, tuy nhiên thực tế, ngành KHCN biển đang gặp không ít khó khăn và hạn chế. TS Trần Đình Lân, Viện Tài nguyên và Môi trường biển đán.h giá: "Hoạt động nghiên cứu KHCN biển còn thiếu tính chuyên nghiệp, nội dung nghiên cứu còn thiếu chiều sâu và dàn trải. Chất lượng các công trình nghiên cứu chưa đồng đều và hiệu quả ứng dụng chưa cao, không ít công trình bị lãng quên theo thời gian".
Ngoài ra, do hạn chế lớn về phương tiện và thiết bị khảo sát, kinh phí đầu tư và trình độ, kinh nghiệm mà hiện nay, các công trình nghiên cứu cho các vùng biển sâu, xa còn rất hạn chế, phần nhiều dựa vào tài liệu khảo sát của nước ngoài... Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên, phòng chống thiên tai mà còn hạn chế về khả năng đảm bảo chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
Trong hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển KHCN về biển Việt Nam là điều cần thiết, là động lực phát triển kinh tế biển, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Để đẩy mạnh KHCN biển, đáp ứng các yêu cầu trên, cần tổng hòa rất nhiều giải pháp. Tuy nhiên, theo PGS.TS Trần Đức Thạnh: "Đến nay vẫn chưa có một chiến lược về KHCN biển nên các nhiệm vụ đặt ra chưa được định hướng rõ ràng và thiếu tính hệ thống, dễ trùng lắp; nhiều vấn đề mới và cấp thiết nhưng triển khai chậm so với yêu cầu của thực tiễn và chưa đủ năng lực để ứng phó với những tình huống bất thường hay đột xuất.
Do đó, rất cần thiết xây dựng, định hướng chiến lược KHCN biển quy mô, tạo bước phát triển cho KHCN biển tiếp cận công nghệ cao. Cùng đó là các chính sách ưu tiên về KHCN biển như chính sách sử dụng nhân lực, chính sách và cơ chế xã hội hóa nguồn tài chính; đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động KHCN biển, trọng tâm đán.h giá kết quả nghiên cứu thông qua các sản phẩm đạt được".
Đồng thời, cấp thiết tăng cường đầu tư phương tiện, thiết bị hiện đại cho khảo sát, giám sát và nghiên cứu như thủy phi cơ, tàu lặn, công nghệ định vị; kỹ thuật tự động hóa và tin học hóa, viễn thám, hệ thông tin địa lý, kỹ thuật khảo sát ngầm...
TS.Trần Đình Lân khẳng định: "Việt Nam cần đẩy mạnh điều tra nghiên cứu và ứng dụng theo các hướng trọng điểm và ưu tiên. Thanh tra sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Gắn kết nghiên cứu KHCN biển phục vụ kinh tế - dân sinh với bảo đảm an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo; tận dụng và kết hợp phương tiện hải quân để nghiên cứu biển".
Đồng quan điểm, TS.Vũ Thanh Ca, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý biển và hải đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường) nhấn mạnh: "Việc tăng cường hợp tác quốc tế sẽ là cơ hội để chúng ta học hỏi, áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ, những kiến thức, kinh nghiệm về điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học và quản lý biển tiên tiến trên thế giới vào điều kiện Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu mà chúng ta khi công bố rộng rãi, tham gia cùng các tổ chức quốc tế và khu vực cũng là những bằng chứng quan trọng giúp khẳng định với bạn bè quốc tế về các vùng biển của Việt Nam".
Theo VNE
Các nước cần sớm thống nhất đối sách đương đầu với thách thức của Trung Quốc Phóng viên TTXVN tại Nhật Bản phỏng vấn Giáo sư danh dự Trường Đại học Tokyo, ông Akira Ishii, liên quan về việc Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép tại thềm lục địa Việt Nam. Giáo sư Akira Ishii là người am hiểu và có nhiều năm nghiên cứu về Trung Quốc cận-hiện đại. Giáo sư danh dự Đại học Tokyo, Akira...