Nguy cơ “Trân Châu cảng” trên mạng”?
Có một cuộc chiến vẫn đang âm thầm xảy ra. Cuộc chiến đó không cần súng, không cần bom, không ồn ào và cũng không báo trước. Đó là chiến tranh mạng máy tính, hay còn gọi là chiến tranh mạng – Cyber War. Hình thức chiến tranh mới càng ngày càng phát triển, xảy ra dồn dập mỗi ngày. Ở mọi nơi. Chỉ có điều chúng âm thầm, ẩn khuất đằng sau các máy computer mà chúng ta sử dụng hàng ngày.
Chiến tranh mạng không mới
Mới đây sự xuất hiện những hình ảnh của máy bay chiến đấu J-31 của Trung Quốc “phong cách” F-22 và F-35 của Mỹ không phải là một bất ngờ lớn nhưng cũng tạo sự ngạc nhiên. Chuyên gia Trung tâm Phân tích chiến lược và công nghệ Nga Vasily Kashin cho rằng máy bay chiến đấu mới của Trung Quốc có được nhờ sự thành công của hoạt động gián điệp mạng Trung Quốc. Từng có thông tin vào năm 2009 về vụ bẻ khóa qua mạng vi tính một công ty phát triển F-35, các “tin tặc” từ lãnh thổ Trung Quốc đã thâm nhập vào hệ thống Lầu Năm Góc và trộm khối lượng lớn các dữ liệu về F-35.
Trong thời gian gần đây, con số hệ thống máy tính mạng của các công ty bị tấn công đã gia tăng nhanh chóng, ngay cả các bệnh viện nơi hồ sơ riêng của các bệnh nhân cũng bị lấy đi. Một thí dụ điển hình là cuộc tấn công gây trở ngại 30.000 máy tính của công ty Saudi Aramco, công ty dầu khí quốc doanh vương quốc Arab Saudi hồi tháng 8 vừa qua.
Một ví dụ dễ hiểu nữa: Ngày 17 tháng Giêng năm 1991, trước khi máy bay của lực lượng đồng minh, gồm 34 nước, do Mỹ lãnh đạo, tấn công Iraq, tất cả hệ thống radar của Iraq bỗng chớp chớp vài cái rồi tắt ngúm. Máy bay đồng minh bay vào không phận Iraq như bay vào cõi không người. Không có phát súng phòng không nào bắn lên cả. Quân đội của Saddam Hussein hoàn toàn mất kiểm soát bầu trời của họ. Sau này, người ta được biết, toàn bộ hệ thống máy tính của Iraq lúc ấy, vốn do Pháp trang bị, đều bị Mỹ cài virus.
Trong vài năm trở lại đây, Iran đã là mục tiêu của nhiều vụ tấn công mạng nhằm làm gián đoạn các hệ thống hạt nhân của nước này. Nước Cộng hòa Hồi giáo buộc tội Mỹ và Israel đứng sau các vụ này.
Con bọ mật danh Olympic Games
Chương trình chiến tranh mạng có mật danh Olympic Games manh nha từ năm 2006 khi Tổng thống Mỹ khi đó là ông George W.Bush nhận thấy vài lựa chọn khả thi trong việc đối phó với Iran. Theo tiết lộ chấn động từ tờ New York Times, lo ngại nhiên liệu hạt nhân có thể được sử dụng theo cách khác bên cạnh việc tạo ra điện năng, đó là hình thành một kho dự trữ mà Iran có thể được làm giàu thành nguyên liệu chế tạo bom nguyên tử, chính quyền Bush đã xem xét các lựa chọn quân sự nhưng ngại chúng có thể kích động một khu vực vốn trong tình trạng chiến tranh và sẽ mang lại những hậu quả khó lường.
Cùng với các quan chức tình báo, tướng James E.Cartwright đã trình bày một ý tưởng hoàn toàn mới mẻ dính líu đến một vũ khí ảo tinh vi hơn rất nhiều so với những thứ mà Mỹ tạo ra trước đó. Đó là chương trình “Olympic Games” với sự phối hợp giữa Cục An ninh Quốc gia Mỹ (NSA), CIA và Israel với chi phí hàng trăm triệu USD. Mục tiêu của chương trình là giành quyền kiểm soát hệ thống máy tính công nghiệp của nhà máy Natanz. Điều này đòi hỏi việc vượt qua bức tường điện tử cách ly nhà máy Natanz (nơi nghiên cứu hạt nhân của Iran) và internet. NSA và một đơn vị Israel có trình độ siêu việt về mạng đã phát triển một con sâu máy tính. Đó là một đoạn mã gọi là kẻ mở đường có khả năng cài vào các máy tính được chế tạo bởi công ty Siemens của Đức và một nhà sản xuất Iran, nhằm ghi lại cấu trúc và chuỗi hoạt động thường nhật của máy tính kiểm soát những chiếc máy ly tâm khổng lồ vốn quay với tốc độ cực lớn nằm sâu dưới lòng đất của Iran.
Ngay từ những tháng đầu nhậm chức tổng thống Mỹ, ông Barack Obama đã cho phép, mở rộng đáng kể phạm vi sử dụng vũ khí ảo của Mỹ. Thực tế, cả Israel và Mỹ đều nhắm vào một bộ phận cụ thể của nhà máy, một khu vực quan trọng mà việc nó bị phá hoại có thể khiến chương trình hạt nhân của Iran thụt lùi đáng kể. Đợt cuối cùng trong một loạt những cuộc tấn công, xảy ra vài tuần sau khi Stuxnet bị phát hiện trên toàn thế giới, đã tạm thời loại bỏ gần 1.000 trong số 5.000 máy ly tâm được Iran khởi động nhằm tinh chế uranium.
CyberWar lan rộng
Ban đầu Iran bác bỏ việc những cơ sở làm giàu bị Stuxnet tấn công song sau đó nói họ đã phát hiện virus và kiềm chế nó. Vào năm ngoái, nước CH Hồi giáo này thông báo họ đã thành lập đơn vị quân đội ảo sẵn sàng giao chiến với các kẻ thù trong hình thái chiến tranh internet và chiến tranh mạng. Có bằng chứng cho thấy họ đã phản công, Iran cũng đã bị xem là nơi xuất phát nhiều cuộc tấn công trên mạng. Chẳng hạn như nhóm tin tặc Izz ad-Din al-Qassam Cyber Fighters tuyên bố đã tiến hành một loạt vụ tấn công nhằm vào các ngân hàng lớn của Mỹ.
Video đang HOT
Gần đây, các tin tặc đột nhập hệ thống máy tính của Văn phòng Quân sự Nhà Trắng (WHMO), cơ quan phụ trách một số hoạt động liên lạc bí mật nhất của chính phủ Mỹ, trong đó nắm giữ dữ liệu về chiếc “vali hạt nhân”, thiết bị điều khiển và kiểm soát vũ khí hạt nhân của tổng thống dùng để liên lạc thường trực với chỉ huy các lực lượng hạt nhân chiến lược trong trường hợp tiến hành một cuộc tấn công hạt nhân. Một cựu quan chức tình báo cấp cao nhận định: “Đây là văn phòng bí mật nhất của Chính phủ Mỹ. Việc mạng máy tính bị xâm nhập có thể gây ra những tổn thất chiến lược nghiêm trọng với nước Mỹ”.
Thực tế, không có quốc gia nào có cơ sở hạ tầng phụ thuộc nhiều vào hệ thống máy tính như Mỹ và do đó nước này dễ bị tổn thương bởi các cuộc tấn công mạng hơn. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta nhấn mạnh rằng nước Mỹ đang đối mặt với mối đe dọa của một cuộc tấn công quy mô lớn trên mạng, có thể gây ra tổn thất về cơ sở vật chất và sinh mạng. Theo ông, hậu quả của cuộc tấn công này có thể so sánh với vụ khủng bố 11-9-2001 và dẫn đến một “trận Trân Châu Cảng trên mạng”. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cũng kêu gọi Quốc hội thông qua dự luật an ninh trên mạng để bảo vệ đất nước. Bộ An ninh nội địa Mỹ thông báo sẽ thành lập một lực lượng dự bị chiến tranh mạng gồm các chuyên gia an ninh mạng. Một hội thảo có một không hai vừa được tổ chức ở Miami. 570 khách mời bao gồm cả hai thành phần tin tặc và chống tin tặc bàn về hai chủ đề: nguy cơ tin tặc tấn công vào các công ty và chính quyền, và nhu cầu tuyển mộ những hacker “cải biến” để chống lại lực lượng tin tặc phá hoại.
Khả năng cho một Đại chiến mạng thế giới?
Richard Clark, cựu cố vấn về chống khủng bố trong Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, tác giả cuốn Cyber War xuất bản năm 2010, trong một cuộc phỏng vấn, hình dung diễn tiến của cuộc chiến tranh trong tương lai như sau: Khi một nước nào đó tấn công một nước khác, họ sẽ không khai chiến, không cho máy bay cất cánh, không chuyển quân và không nổ súng. Tất cả đều án binh bất động. Tất cả đều im lặng. Chỉ có các chuyên viên ngồi trước máy tính làm việc. Và bỗng dưng, ở nước thù địch bị tấn công, mọi ống dẫn xăng dầu nổ tung và bùng cháy dữ dội mọi đường dây điện, và cùng với chúng, mọi bóng đèn, từ đèn đường đến đèn nhà, đều tắt ngúm hệ thống không lưu ở phi trường ngừng hoạt động máy bay không thể lên hay xuống được hệ thống điều hành xe lửa cũng bị hư, xe lửa hoặc đứng yên hoặc tông vào nhau rầm rầm nước trong các hồ chứa ở các thành phố hoặc ngừng chảy hoặc chảy tràn, thành lụt, ở khắp nơi và mọi hồ sơ chuyển tiền, vay tiền trong ngân hàng đều bị xóa sạch các máy rút tiền đều bị chết cứng, không ai còn có thể rút tiền được nữa. Tất cả, theo Clark, đều diễn ra trong khoảng 15 phút. Suốt cả 15 phút ấy, kẻ thù vẫn khuất mặt.
Không ai biết cả.
Với xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, mọi sinh hoạt đều có tính chất liên lập, khi gây thiệt hại cho nước này, người ta không thể tránh gây thiệt hại cho nước khác, kể cả chính nước của mình. Một cuộc chiến tranh mạng với quy mô lớn có thể gây ra những phản ứng ngược, dẫn đến những hậu quả ngoài ý muốn mà không ai có thể lường trước được. Triển vọng một cuộc chiến tranh mạng lớn, do đó, không dễ xảy ra. Tuy nhiên, người ta không dám hoặc không thể tiến hành chiến tranh mạng với quy mô lớn, thì vẫn có thể tiến hành, và trên thực tế, tiến hành một cách thường xuyên các cuộc tấn công mạng ở quy mô nhỏ chỉ riêng ở Mỹ, cả hàng chục ngàn vụ mỗi năm, gây không biết bao nhiêu là thiệt hại. Các cuộc tấn công này nhắm đến hai mục tiêu chính: một là phá hoại (đánh sập các trang mạng) và hai là ăn cắp thông tin, từ thông tin quốc phòng đến thông tin thương mại và kỹ thuật.
Giám đốc điều hành hãng sản xuất phần mềm diệt virus Kaspersky Lab có trụ sở tại Maskva (Nga), ông Eugene Kaspersky cho rằng cuộc chiến tranh mạng trên toàn cầu đang ngày càng trở nên tinh vi và nguy hiểm hơn. Ông khẳng định: “Chiến tranh mạng đang ở giai đoạn hoạt động cao nhất và chúng tôi cho rằng nó sẽ leo thang trong năm 2013″.
Theo ANTD
Cuộc đua phát triển máy bay tàng hình như một canh bạc lớn
Hiện nay, ngoài Mỹ đã sở hữu nhiều máy bay tàng hình như F-22, F-35, B-2, rất nhiều nước đang cố gắng phát triển máy bay tàng hình nhằm giành ưu thế trên không trước đối phương.
Tuy nhiên, một câu hỏi lớn đặt ra là trong tương lai gần, máy bay tàng hình có thực sự uy lực và cần thiết như người ta vẫn nghĩ?
Giá thành, bài học từ Australia
Ngay từ năm 2002, Australia quyết định tham gia vào dự án phát triển máy bay F-35 của Mỹ nhằm giành được quyền sớm sở hữu loại máy bay được quảng cáo vô cùng ưu việt này thay thế cho các máy bay F-111 và F/A-18 đang có trong biên chế.
Theo Bộ trưởng Quốc phòng Australia khi đó là ông Robert Hill, máy bay F-35 sẽ đảm bảo ưu thế không quân trong khu vực của Australia ít nhất đến năm 2030.
Tuy nhiên, đến tháng 7/2011, Bộ trưởng Quốc phòng hiện tại Stephen Smith đã từ chối xác nhận kế hoạch trước đó của Australia mua 100 máy bay F-35 với giá 16 tỷ USD. Thay vào đó, ông này cho biết Australia có thể chỉ mua 14 chiếc máy bay loại này với giá 228,6 triệu USD/chiếc.
Quá trình phát triển của máy bay F-35 đã gặp rất nhiều trở ngại khiến giá thành của chiếc máy bay này ngày một đội lên cao, làm nản lòng những quốc gia có nhu cầu.
Việc Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc dù là thị trường truyền thống của Mỹ đều thông báo sẽ xem xét lại kế hoạch mua F-35 khiến dư luận đặt ra nhiều dấu hỏi cho "sự ưu việt tuyệt đối" của loại máy bay này.
Hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng đều thừa nhận khả năng tàng hình của máy bay F-35 giúp loại máy bay này chiếm nhiều lợi thế so với các máy bay của Nga và Trung Quốc trên thị trường xuất khẩu. Nhưng vào thời điểm này, không ít người đã đặt ra câu hỏi: Liệu số tiền họ bỏ ra cho tính năng "tàng hình" được quảng cáo có xứng đáng.
Thật sự tàng hình trước radar?
Trong chiến tranh Vùng vịnh lần thứ nhất năm 1991, đã có báo cáo cho thấy một số radar hải quân sử dụng ước sóng dài có thể phát hiện và theo dõi các máy bay tàng hình F-117A của Mỹ.
Tuy nhiên, những báo cáo này hầu như không được dư luận chú ý cho đến khi chiếc F-117 đầu tiên của Mỹ bị bắn hạ bởi quân đội Serbia trong chiến tranh Kosovo.
Quân đội Serbia đã dùng radar P-18 1RL131 Spoon Rest D băng sóng VHF và hệ thống tên lửa 40 năm tuổi S-125M Neva (NATO đặt tên là SA-3 Goa) để lập nên kỳ tích này.
Sau đó, rất nhiều nước đã khẳng định họ có trong tay loại radar với khả năng phát hiện máy bay tàng hình. Trong đó phải kể đến hệ thống Kolchuga-M của Ukraina và Tamara của Séc.
Hệ thống Kolchuga-M được thiết kế và sản xuất tại Donetsk là loại radar thụ động đã được công nhận về chất lượng tuyệt hảo trên thế giới với khả năng phát hiện, định vị, nhận dạng hầu hết các loại sóng điện từ bằng hệ thống cảm biến ưu việt.
Đài radar thụ động Kolchuga của Ukraina sản xuất.
Tuy nhiên, Kolchuga vẫn chưa phải sản phẩm hoàn hảo vì nếu máy bay tàng hình không phát tín hiệu liên lạc, khả năng này của Kolchuga cũng vô hiệu. Dù vậy, radar Kolchuga vẫn được bán rất chạy trên thị trường thế giới với các khách hàng chủ yếu như Turkmenistan, Trung Quốc, Việt Nam...
Một đối thủ xứng tầm khác của Kolchuga là radar Tamara của cộng hòa Séc. Loại radar này có khả năng phát hiện các mục tiêu bay cách xa 450 km và theo dõi cả các loại máy bay, tên lửa tàng hình. Nhà sản xuất Tamara là Tesla đã bán được 23 hệ thống loại này cho các nước thuộc khối Liên Xô cũ và đồng minh.
Một trong những hệ thống Tamara này đã đến được tay người Mỹ qua ngả Oman, qua đó, phục vụ các thử nghiệm của Mỹ để phát triển kỹ thuật tàng hình tiên tiến hơn.
Radar Tamara-M đã bị Trung Quốc sao chép thành biến thể radar YLC-20 nội địa
Ngoài Tamara, Tesla cũng đã giới thiệu và bán biến thể nâng cấp của loại radar này có tên Tamara-M (sau đó đã bị Trung Quốc sao chép thành radar YLC-20 nội địa), radar Vera-E xuất khẩu cho Estonia, Malaysia và Pakistan (Vera-E cũng đã đến được tay Mỹ qua ngả này). Năm 2004, dưới áp lực của Mỹ, Séc cũng đã hủy bỏ một hợp đồng cung cấp 6 hệ thống Vera-E cho Trung Quốc.
Trinh sát hồng ngoại, vô hiệu hóa tàng hình
Dù các radar trên máy bay chiến đấu của Nga và Trung Quốc hiện nay đều chưa được công bố có khả năng ứng phó với máy bay tàng hình nhưng chúng hoàn toàn có thể nhận tín hiệu về vị trí và hướng bay của máy bay tàng hình từ các đài radar mặt đất. Khi đó, bằng các phương tiện trinh sát bổ sung khác, máy bay đối phương có thể hạ gục máy bay tàng hình một cách dễ dàng.
Giả sử những chiếc máy bay tàng hình hiện đại nhất có thể hấp thụ hoàn toàn sóng radar, tuy nhiên với tín hiệu ở băng sóng hồng ngoại phát đi từ động cơ, ma sát thân máy bay với không khí khi bay siêu âm thì khó có thể che giấu được.
Trong môi trường không khí loãng ở độ cao lớn, tín hiệu hồng ngoại của các máy bay tàng hình có thể bị phát hiện ở khoảng cách hàng trăm kilomet. Tín hiệu hồng ngoại này có thể bị phát hiện, theo dõi, nhận dạng bởi các thiết bị trinh sát hồng ngoại từ cự ly đủ xa để tấn công bằng các tên lửa không đối không tầm ngắn và tầm trung.
Ví dụ thiết bị IRST (Infrared search and track - Tìm kiếm, theo dõi mục tiêu bằng tín hiệu hồng ngoại) trang bị trên máy bay thế hệ 4,5 MiG-35 được trang bị hệ thống phát hiện mục tiêu bằng quang học (OLS - Optical Locator System) phát triển bởi NIIP.
Thiết bị này có khả năng phát hiện một chiếc MiG-29 từ đằng sau ở khoảng cách 45 km và 15 km khi bay đối đầu. Nếu mục tiêu bay đốt nhiên liệu lần hai, nó có thể bị phát hiện ở khoảng cách 90 km. Trong điều kiện ban ngày trời trong, hệ thống này có thể phát hiện máy bay địch ở khoảng cách 200 km.
OLS-35 trang bị trên máy bay Su-35 thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Hệ thống này có thể phát hiện được máy bay tàng hình F-22 Raptor ở khoảng cách tới 100 km.
Hiện tại, Nga đang hoàn thiện hệ thống OLS-50M mạnh mẽ hơn để trang bị cho các máy bay thế hệ thứ 5 PAK FA của nước này.
Hệ thống trinh sát hồng ngoại OLS trên mũi máy bay Mig-35 có thể phát hiện máy bay địch ở khoảng cách tới 200 km trong điều kiện tối ưu
Hiện nay, có vẻ như năng lực xuyên thủng hệ thống phòng không đối phương mà không bị phát hiện của máy bay tàng hình đang ngày một bị thách thức bởi sự ra đời của các hệ thống phòng không hiện đại. Do đó, việc tự phát triển hay đặt mua máy bay tàng hình với giá cắt cổ của nhiều nước như hiện nay được ví như đổ tiền vào một canh bạc lớn.
Theo ANTD
Trung Quốc lần đầu bay thử nghiệm máy bay chiến đấu thế hệ 5 - J-31 Trung Quốc vừa thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của mẫu thử nghiệm máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm J-31 tại tỉnh Liêu Ninh. Truyền thông Trung Quốc nhấn mạnh về sự kiện này rằng, nước này trở thành quốc gia thứ hai sau Mỹ có thể tự phát triển cùng lúc 2 loại máy bay chiến đấu thế...