Nguồn gốc tên gọi tỉnh Tuyên Quang và những lễ hội có thể bạn chưa biết
Tuyên Quang không chỉ là mảnh đất có bề dày lịch sử, mà còn là kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, nằm giữa Đông Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, cách thủ đô Hà Nội 165 km, cách sân bay Nội Bài 130 km.
Tên gọi Tuyên Quang xuất hiện sớm nhất trong cổ thư ở nước ta là trong sách An Nam chí lược của Lê Tắc, soạn thảo ở Trung Quốc vào năm 1335. Sách viết: “Quy Hóa giang tự Vân Nam, Tuyên Quang thủy tự Đặc Ma đạo, Đà giang thủy tự Chàng Long, nhân danh yên” (có nghĩa: nước sông Quy Hóa từ Vân Nam chảy về, nước sông Tuyên Quang từ đạo Đặc Ma chảy về, nước sông Đà từ Chàng Long chảy về, nhân có ngã ba sông mà đặt tên như vậy). Có thể thời điểm đó tên gọi Tuyên Quang bắt nguồn từ tên một con sông, sông Tuyên Quang (nay là sông Lô) mà nhiều tác giả sau này có viết đến.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi nằm thuộc vùng Đông Bắc. Đây là vùng đất giàu truyền thống cách mạng và cũng là nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, tên gọi đơn vị hành chính của Tuyên Quang đã thay đổi nhiều lần, từ lộ, trấn đến thừa tuyên… Tại cuộc Hội thảo khoa học do Viện Sử học Việt Nam và tỉnh Tuyên Quang tổ chức ngày 26/9/2011, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử đã thống nhất lấy ngày 4/11/1831 là ngày thành lập tỉnh Tuyên Quang.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, mỗi cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống trên mảnh đất Tuyên Quang đều đóng góp những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể thực sự tiêu biểu. Nơi đây được ví là hình ảnh thu nhỏ của vùng văn hoá Việt Bắc. Những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh thể hiện trong đời sống tinh thần khá rõ nét. Đó là những quan niệm và cách giải thích về vũ trụ, các nghi lễ như: Thờ cúng tổ tiên, cúng chữa bệnh, cưới hỏi… Đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh đã tạo dựng được một kho tàng dân ca, dân vũ hết sức phong phú, đặc sắc như làn điệu Then, Cọi, Quan làng (dân tộc Tày), Páo dung (dân tộc Dao), Sình ca (dân tộc Cao Lan), Soọng cô (dân tộc Sán Dìu)…
Với một vị trí địa lý đặc biệt bản lề nối hai vùng Đông và Tây Bắc Bộ, trải dài từ Bắc xuống Nam, cùng với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, truyền thống, lịch sử, văn hóa, cách mạng, Tuyên Quang có nhiều điều kiện để phát triển tốt các loại hình du lịch… Từ lâu Di tích Quốc gia Đặc biệt Tân Trào đã là địa chỉ đỏ không thể thiếu cho các hoạt động du lịch về nguồn. Na Hang cùng các sản phẩm du lịch sinh thái, Mỹ Lâm với nguồn suối khoáng nóng độc đáo cho du lịch nghỉ dưỡng, … cùng các hệ thống đình đền chùa nổi tiếng linh thiêng, Tuyên Quang đã và đang trở thành điểm đến ưa thích của của du khách trong và ngoài nước.
Với mục tiêu quảng bá những nét văn hóa tiêu biểu của địa phương, thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, Tuyên Quang còn tổ chức nhiều chương trình lễ hội đặc sắc.
Lễ hội Thành Tuyên không chỉ là lễ hội Tuyên Quang nổi bật mà cũng là lễ hội Trung thu nổi tiếng nhất cả nước. Đêm chính hội là ngày 15/8 âm lịch, lúc này cả thành phố Tuyên Quang lung linh ánh sáng của các loại đèn trang trí, những dòng người nối dài diễu hành cùng các mô hình, nhân vật ngộ nghĩnh: Chú Tễu, Thằng Bờm, Chú Cuội…
Những chiếc đèn lồng ngộ nghĩnh kéo về quảng trường.
Bắt đầu từ năm 2004, lễ hội Tuyên Quang này đã được sách kỷ lục Guiness Việt Nam xác nhận kỷ lục lễ hội có mô hình đèn Trung thu độc đáo, lớn nhất Việt Nam. Đây là sự kiện văn hoá, thể thao, du lịch quan trọng của tỉnh, nhằm giúp quảng bá về miền đất, con người và các giá trị di sản văn hóa của Tuyên Quang.
Video đang HOT
Đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La là những công trình kiến trúc cổ, không chỉ có giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc mà còn mang nét linh thiêng của tín ngưỡng thờ Mẫu – nét đẹp tâm linh trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Lễ hội rước Mẫu được tổ chức từ ngày mùng 11 – 16/2 âm lịch hàng năm tại đền Mẫu, phường Ỷ La và đền Thượng, xã Tràng Đà để cùng tham gia rước Mẫu về đền Hạ, phường Tân Quang và ngược lại.
Lễ rước mẫu đền Hạ, đền Ỷ La, đền Thượng.
Hoạt động trong lễ hội rước Mẫu bao gồm phần lễ và phần hội. Về phần lễ có: Lễ rước nước và thả Đèn Hoa Đăng trên Sông Lô; lễ tế tại Đền Ỷ La, phường Ỷ La và tổ chức rước Mẫu từ đền Ỷ La về Đền Hạ; lễ tế tại Đền Thượng và tổ chức rước Mẫu từ Đền Thượng về Đền Hạ. Về phần hội có: Liên hoan văn hoá tín ngưỡng thờ Mẫu; hội thi Ẩm thực; triển lãm ảnh; biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp; tổ chức thi đấu thể thao và các trò chơi dân gian.
Lễ hội Lồng Tồng (còn gọi là Lễ hội xuống đồng) là lễ hội lớn nhất của người Tày diễn ra từ ngày mùng 5 – 15 tháng Giêng hằng năm trên địa bàn tỉnh, là lễ hội phản ánh mong ước mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Trong đó huyện Chiêm Hóa thường tổ chức vào ngày mùng 8 tháng Giêng, huyện Na Hang lại tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng, huyện Lâm Bình vào khoảng từ ngày 10 đến 16 tháng Giêng.
Lễ hội Lồng Tồng của người Tày.
Lễ hội có hai phần: Phần lễ cúng trời đất, các vị thần linh, lễ tịch điền đầu năm mới, phát lộc cho nhân dân. Phần hội có các trò chơi dân gian như tung còn, kéo co, đẩy gậy, đi cà kheo, bắn nỏ, đánh pam, đánh yến, đánh đu, hát đối đáp Sli, Lượn, Then…
Năm 2013, lễ hội này đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lễ hội Cầu may và Cầu mùa đình Tân Trào (huyện Sơn Dương) là lễ hội truyền thống của dân tộc Tày diễn ra vào ngày mùng 2 và mùng 4 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội mang ý nghĩa tâm linh và giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân, cũng là dịp để nhân dân gửi gắm mong ước mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mang lại nhiều no ấm cho người dân và còn thể hiện một cách sinh động nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc của dân tộc Tày.
Lễ hội diễn ra ở khu di tích Tân Trào.
Lễ hội Cầu may và Cầu mùa gồm 2 phần: Phần lễ được tổ chức cúng tế trong đình nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, mọi nhà ấm no, hạnh phúc và tỏ lòng thành kính với các vị thần Thành hoàng làng có công khai canh lập địa. Phần hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian truyền thống như: Cày bừa, khai địa, kéo co, tung còn…
Lễ hội cầu may và cầu mùa là hoạt động văn hoá không thể thiếu trong đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân vùng đất chiến khu cách mạng Tân Trào mỗi độ xuân về.
Lễ hội đua thuyền do thành phố Tuyên Quang tổ chức vào ngày mồng 4 Tết hàng năm trên sông Lô. Lễ hội thu hút đủ 13 xã, phường tham gia. Các đội thi đấu bằng thuyền sắt với 26 vận động viên mỗi đội, với cự ly thi đấu 2,5 km. Lễ hội đua thuyền trên sông Lô là lễ hội Tuyên Quang thu hút rất đông du khách thập phương đến xem, cổ vũ.
Đối với nhân dân các dân tộc huyện Hàm Yên, hàng năm vào ngày mồng 9 tháng Giêng tại Khu di tích danh thắng quốc gia Động Tiên, xã Yên Phú, lễ hội Động Tiên diễn ra gửi gắm mong ước mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Lễ hội Động Tiên.
Phần lễ có lễ tế tại đình thành hoàng làng, rước lễ dâng hương Động Tiên và phát lộc cho du khách gần xa gặp nhiều may mắn. Ngoài ra, du khách được lắng nghe những làn điệu dân ca, các hoạt động văn hóa, nhiều trò chơi dân gian và các môn thể thao dân tộc được tổ chức như: đánh cờ người, bịt mắt bắt dê, đánh quay, thi đấu bóng chuyền và chọi dê…
Cũng tại lễ hội Động Tiên, hội chợ quê với những sản vật nổi tiếng của huyện như vịt Minh Hương, cam sành, bánh sừng bò, rau dớn nộm,… rất thu hút du khách.
Đây là lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc Pà Thẻn; một sinh hoạt văn hóa mang tính tâm linh, thể hiện sức mạnh phi thường dám đương đầu với nguy hiểm, xua đuổi tà ma, bệnh tật của người dân Pà Thẻn. Ngoài sự thần bí linh thiêng, nghi lễ thể hiện sự cầu mong sức khỏe cho dân làng, mùa màng bội thu cho bà con trong năm mới.
Lễ nhảy lửa Pà Thẻn.
Lễ hội nhảy lửa của đồng bào dân tộc Pà Thẻn được bắt đầu bằng việc thầy mo người Pà Thẻn làm lễ cầu khấn thần linh.Khi thầy mo gõ vào đàn và làm lễ cúng, những người tham gia nhảy lửa ngồi đối diện với thầy mo để làm phép “nhập đồng” và chỉ dành cho nam giới. Thời gian làm lễ kéo dài 1-2 giờ trước khi nhảy vào đống lửa. Sau khi nhập đồng các chàng trai Pà Thẻn đã cùng nhau nhảy vào đống lửa rực hồng, họ nhảy múa trên đống than hồng rực mà không hề sợ hãi hay cảm thấy bỏng rát giữa sự hò reo, cổ vũ của hàng nghìn khán giả và du khách.
Lễ hội nhảy lửa truyền thống của dân tộc Pà Thẻn là minh chứng cho sức mạnh và quá trình lao động, chế ngự thiên nhiên để sinh tồn và phát triển của con người. Tại lễ hội còn diễn ra nhiều tiết mục văn nghệ đặc sắc, trình diễn trang phục truyền thống của các dân tộc trên địa bàn xã, nghi lễ Kéo chày của dân tộc Pà Thẻn.
Hội bắt cá được tổ chức gắn liền với lễ hội Lồng Tông của xã Năng Khả (Na Hang) vào ngày mùng 10 tháng Giêng. Đây là phần hội hết sức độc đáo, thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia, tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong những ngày đầu xuân mới.
Hội bắt cá gắn với lễ hội Lồng Tông.
Hội bắt cá gắn với lễ hội Lồng Tông xuất phát từ tập quán của người Tày vùng cao huyện Na Hang. Cứ vào dịp đầu xuân, bà con nhân dân các thôn, bản thường tổ chức đánh bắt cá ở các con suối, thửa ruộng ngập nước.người tham gia bắt cá phải bắt bằng tay, không được sử dụng bất cứ dụng cụ hỗ trợ nào. Hội bắt cá đã tạo không khí vui tươi nhằm cổ vũ, khuyến khích người dân đẩy mạnh phong trào nuôi trồng thủy sản. Đây cũng là trò chơi độc đáo thu hút đông đảo khách du lịch đến với huyện Na Hang.
Kiến trúc độc đáo của tháp Ponagar
Ponagar - công trình tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc của dân tộc Chăm được xây dựng từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 13.
Tháp Ponagar còn gọi là Tháp Bà nằm trên đồi Cù Lao, bên dòng sông của thành phố Nha Trang (Khánh Hòa). Thời điểm tháp được xây dựng cũng là thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) hưng thịnh nhất tại vương quốc Chămpa cổ.
Tương truyền, nữ thần Thiên Y A Na Thánh Mẫu là vị tiên giáng trần, đã có công dạy nhân dân trồng lúa, nuôi tằm, dệt vải... Công đức của Thánh Mẫu luôn được người dân Nam Trung Bộ và Tây Nguyên ghi ơn.
Tổng thể Tháp Ponagar. Ảnh: A lamy
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, tổng thể kiến trúc của tháp Bà có 3 tầng, đi từ dưới lên trên. Ở tầng thấp, ngang mặt đất là ngôi tháp cổng nay không còn nữa. Tầng giữa là nhà khách, nhà tĩnh tâm dành cho khách nghỉ ngơi, sửa soạn trang phục, chuẩn bị lễ vật và các nghi thức trước khi hành lễ. Hiện còn hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác.
Tầng trên cùng là nơi 4 ngọn tháp tọa lạc, những ngôi tháp được xây dựng theo kiểu Chăm, hoàn toàn xây bằng gạch, không có chất kết dính. Lòng tháp rỗng tới đỉnh, cửa tháp quay về hướng Đông. Mặt ngoài thân tháp có nhiều gờ, trụ, đấu.
Trên đỉnh các trụ thường đặt gạch trang trí hoa văn hình vòm tháp, trông như chiếc tháp nhỏ đặt lên một tháp lớn. Trên thân tháp còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung, trong đó có hình Po Nagar, thần Tenexa, các tiên nữ, các loài thú: nai, ngỗng vàng, sư tử...
Phiến đá khắc hình nữ thần Durga đang múa cùng hai nhạc công trên cổng tháp chính. Ảnh: Alamy
Tháp chính cao khoảng 23 m, thờ nữ thần Po Nagar. Tháp có 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa, tượng thần và hình thú bằng đá, ở bốn góc có 4 tháp nhỏ. Trước đây tượng nữ thần được tạc bằng vàng và gỗ trầm hương.
Hiện tại tượng nữ thần được tạc bằng đá hoa cương màu đen ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn hình lá bồ đề ở phía trong tháp. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cưỡi ngưu thần Nandin, và các tượng linh vật như chim thiên nga, dê...
Ba tháp còn lại thờ thần Siva, một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ, thần Sanhaka, thần Ganeca, con trai thần Siva. Ngoài ra, trong quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều bia ký cổ nhất của người Chăm, ghi lại những lời ca ngợi Thánh Mẫu, liệt kê những cống phẩm để xây dựng tháp cùng với việc dâng cúng ruộng đất...
Tượng Yang Po ANagar hay theo cách gọi của người Việt là Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Ảnh: Alamy
Tháp Ponagar là một quần thể kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Chăm, được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1979. Lễ hội Tháp Bà Ponagar diễn ra từ ngày 21 - 23/3 âm lịch hàng năm, là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và được xếp hạng là một trong 16 lễ hội cấp quốc gia.
Chùa Tân Thanh: Cột mốc tâm linh nơi biên cương phía Bắc Chùa Tân Thanh không chỉ là nơi đáp ứng đời sống tâm linh, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của người dân địa phương mà còn có ý nghĩa lớn trong việc khẳng định chủ quyền, lãnh thổ quốc gia. Trên khắp dải đất Việt Nam từ biên cương đến nơi hải đảo, ở đâu cũng có những ngôi chùa với...