Nguồn gốc tên gọi của chiếc bánh vợ – chồng
Có rất nhiều câu chuyện hay ho và ý nghĩa xung quanh cặp bánh này các bạn ạ!
Nhắc tới bánh phu thê, chắc đã không còn xa lạ đối với mỗi người Việt Nam, chiếc bánh vẫn thường xuất hiện trong mỗi dịp lễ tết, cưới hỏi. Bánh phu thê không chỉ là một trong những loại bánh truyền thống của Việt Nam mà còn hàm chứa trong đó triết lý âm dương của cả dân tộc. Từ một đặc sản của làng Đình Bảng – Bắc Ninh, bánh phu thê đã nhanh chóng nổi tiếng và trở thành một loại bánh được ưa chuộng trên khắp đất Việt.
Tục truyền, tên gọi bánh phu thê là do sự tích vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng. Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là bánh phu thê. Cũng vì tên gọi ấy mà bánh phu thê (hay cũng còn gọi là xu xê) luôn được buộc thành cặp, biểu trưng cho sự gắn bó son sắt của tình chồng vợ.
Có người lại truyền nhau tên gọi bánh “phu thê” gắn liền với câu chuyện kể về vợ chồng người lái buôn thuở xưa. Chuyện kể rằng, trước lúc người chồng lên đường đi buôn ở phương xa, người vợ làm bánh tặng chồng và thề rằng cho dù xa nhau nhưng lòng nàng vẫn luôn ngọt ngào, đậm đà như bánh. Chồng cảm động đặt tên cho bánh là bánh phu thê. Chẳng ngờ đến phương xa, người chồng bị say đắm bởi sắc đẹp của các cô gái lạ và không muốn quay về. Người vợ ở nhà biết tin liền làm bánh gửi cho chồng kèm theo lời nhắn:
“Từ ngày chàng bước xuống ghe
Video đang HOT
Sóng bao nhiêu đợt bánh rầu bấy nhiêu”.
Nhận được bánh và lời nhắn của vợ, người chồng hối hận liền tức tốc quay về và không còn nghĩ đến chuyện thay lòng đổi dạ nữa. Từ đó, người ta truyền nhau rằng bánh phu thê tượng trưng cho sự thủy chung của vợ chồng và thường hay có mặt trong tiệc cưới như một lời nhắn nhủ đến các đôi vợ chồng trẻ.
Lại có câu chuyện khác thế này, những em nhỏ của làng Đình Bảng kể lại rằng: Theo truyền thuyết, thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày Tết, người dân làng Đình Bảng thường dùng sản vật mình đã cấy trồng ra làm bánh Su Sê, thành tâm dâng cúng tổ tiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên Phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tại đây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương là bánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khen ngon. Thấu suốt sự hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân văn của loại bánh ngon, nhà vua đã truyền rằng bánh nên là một lễ vật trong ngày vui kết thành phu thê. Từ đó, bánh được gọi là bánh Phu Thê.
Bánh phu thê truyền thống được gói bằng hai thứ lá, bên trong là lớp lá dong hoặc lá chuối, bên ngoài là lớp lá dừa. Loại gạo để làm bánh phu thê phải là loại gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon. Gạo đem vo sạch, để ráo nước và dùng cối giã chứ không được xay bằng máy. Tiếp đó, lọc lấy tinh bột gạo, bởi vậy, một cân gạo nếp cái hoa vàng thường chỉ lấy được 4 lạng tinh bột thôi. Bột lọc đó lại đem xay cho thật nhuyễn rồi phơi hoặc sấy khô để qua 15 ngày mới đem ra làm bánh, nếu làm ngay thì bánh sẽ nát. Để có được lớp vỏ bánh phu thê vàng ươm, người làm bánh thường đem hoa dành dành phơi khô, khi nào làm bánh thì ngâm vào nước sôi để chiết lấy nước màu vàng.
Bên trong chiếc bánh trong suốt ấy còn được rắc lẫn những sợi đu đủ nạo nhỏ nữa thế nên khi ăn, ta sẽ có cảm giác giòn giòn, sần sật xen lẫn trong cái dẻo dai của vỏ bánh. Nhân bánh là đỗ xanh được ngâm kĩ, đãi sạch vỏ, đem hấp chín, nghiền mịn thắng với đường và trộn lẫn vào sợi dừa đã được nạo nhỏ. Khi ăn, bánh thường được cắt làm bốn nên trong nhân bánh thường đặt bốn hạt sen ở bốn góc.
Người ta cho rằng cách làm chiếc bánh phu thê cầu kì như vậy là để chứa đựng nhiều ý nghĩa ẩn bên trong. Cái cách dàn mỏng bột lên khuôn, đặt nhân vào một đầu rồi đắp phần bột còn lại lên nhân dường như thể hiện sự ôm ấp, che chở của tình nghhĩa phu thê. Không những vậy, bánh phu thê còn bao hàm trong nó triết lí ngũ hành một cách tinh tế qua năm màu của bánh: màu trắng của bột lọc và cơm dừa, màu vàng của dành dành dùng làm màu cho vỏ bánh và nhân đỗ xanh, màu đen của hạt vừng, màu xanh của lá và màu đỏ của lạt buộc. Đó là sự hòa hợp của con người với trời đất, là sự hòa hợp giữa người với người và giữa vợ với chồng. Có lẽ bởi ý nghĩa âm dương giao hòa và mùi vị thơm ngon, ngọt ngào của chiếc bánh mà công đoạn làm ra nó cũng không hề đơn giản tẹo nào. Bánh phải được luộc bằng bếp củi, đun vừa lửa, mới giữ được vị ngon và mùi thơm của bánh. Thưởng thức bánh phu thê với nếp dẻo, đu đủ giòn, vị ngầy ngậy của đỗ xanh, vị béo của dừa, vị thơm của hạt sen, vị ngọt thanh của đường và hương thơm của dầu chuối… tất cả hòa quyện với nhau tạo nên hương vị riêng của bánh phu thê, hương vị ngọt ngào của tình nghĩa vợ chồng.
Bánh phu thê là một đặc sản được nhiều người ưa chuộng. Bánh phu thê có ở rất nhiều nơi, nhưng nổi bật nhất là làng Đình Bảng, nơi giữ được truyền thống lâu đời làm bánh phu thê. Bánh phu thê Đình Bảng chân chất mộc mạc, ngon mà mát, đẹp mà không đắt… Theo những bô lão trong làng Đình Bảng, ngày xưa, chỉ có các gia đình quý tộc, chức sắc mới có tiền mua bánh phu thê. Bánh phu thê ngày đó chỉ được dùng trong những dịp lễ quan trọng hoặc dùng để làm quà biếu sang trọng cho khách phương xa. Ngày nay, nghề làm bánh phu thê đã phổ biến hơn và với mức sống được nâng cao, hầu như gia đình nào cũng dễ dàng chọn cho mình những cặp bánh phu thê thơm ngon, đẹp mắt.
Ngày nay, nhiều đám hỏi và lễ cưới vẫn chọn bánh phu thê để làm lễ vật vì ý nghĩa âm dương giao hòa tinh tế của nó. Thay vì dùng lá dừa làm hộp bánh như trước kia, người ta thay bằng giấy bóng kính, buộc bánh bằng ruy-băng màu. Ở nhiều nơi, người ta không còn thấy màu vàng của vỏ bánh phu thê nữa, mà thay vào đấy là màu đỏ, màu trắng nhưng vẫn vuông tròn, mềm dẻo, thơm ngon… và vẫn chứa đựng trong đó ý niệm thủy chung nhắn gửi tới những đôi uyên ương vào ngày cưới.
Theo PLXH
Về Bắc Ninh thưởng thức nem Bùi
Nói đến vùng quê Kinh Bắc, người ta thường nghĩ ngay đến những làn điệu quan họ, nhưng ở vùng quê này còn có những món ăn dân dã mang đậm chất quê hương, ăn một lần thì ắt hẳn khó quên như: Bánh tẻ làng Chờ, bánh khúc làng Diềm, bánh phu thê Đình Bảng... Ngoài các loại bánh nghe tên đã muốn thưởng thức thì ở thôn bùi xá, xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành còn nổi tiếng trong và ngoài nước với loại nem Bùi, sánh cùng với các loại nem Phùng, nem Vẽ...
Món quà quê dân dã mà níu chân thực khách.
Chúng tôi đến tham quan làng Bùi vào một ngày cuối tuần, ngôi làng nhỏ giống như bao làng quê khác. Mới vào đến đầu làng, mùi thơm của thính đã ngào ngạt lan tỏa khắp nơi, tiếng chày giã thính rộn rã. "50% hộ trong làng giờ có thêm nghề phụ là làm nem. Ngoài việc đồng áng, chăn nuôi, chúng tôi quay trở về với nghề cha ông, vừa để gìn giữ một món ăn dân dã, đặc sản của làng, vừa có thêm nghề phụ để kiếm thêm thu nhập. "Nhiều nhà đã "phất" lên từ làm nem này đấy", ông trần văn thảo, chủ cơ sở làm nem thảo nhàn, tự hào khoe. Điều đặc biệt ở nem làng Bùi là hương vị của thính, mỗi nhà có một bí quyết riêng nhưng nhà nào cũng thơm, ngon không chê vào đâu được. Nhà ông Xuân mỗi ngày trung bình làm 50kg nem; ngày lễ, Tết có khi làm đến một tạ, tùy theo lượng khách đặt hàng. Nguyên liệu làm món nem Bùi phải là giống lợn ỉ đen, lưng gẫy hình yên ngựa, mõm ngắn nuôi bằng cám gạo và bèo cái, hoặc rau chuối. Cả con lợn thịt ra cũng chỉ lấy được hai cái thăn và phần mỡ gáy để làm nem. Công đoạn làm thì phải dùng thịt thái chỉ, rồi gia giảm tỏi, ớt, dấm chua bóp với thính gạo xay, nắm thật chặt rồi gói lại bằng lá chuối. Sau 3 ngày nem tự chín, lúc đó mới ăn được. Mở lá chuối ra, chiếc nem hình vuông được cô chặt có màu hồng nhạt, mùi thơm của thính, vị béo béo, ngậy ngậy, chua chua của thịt. Lấy một nhúm nem quấn với lá sung cắn một miếng ngon tuyệt. Nem Bùi không cần chấm với nước chấm vì nem đã đầy đủ gia vị vừa ăn, nếu thích, thực khách có thể chấm thêm với chút tương ớt. Được biết, nem làng Bùi xưa kia được chọn để tiến vua, còn thời Pháp, các quan Tây cũng bị "nghiện" món này, đến thời bao cấp thì nghề làm nem làng Bùi bị mai một vì thời đó, cả làng chỉ nuôi giống lợn lai kinh tế nên không thể làm được món nem Bùi do thịt xơ lại hôi.
Ông Nguyễn Văn Thành là một trong những người làm nem lâu đời ở làng Bùi, kể rằng: "Cách đây 6 năm, có 3 ông Tây gần 90 tuổi tìm về làng để được ăn lại thứ nem mà trước kia họ đi lính cho Pháp được ăn một vài lần. Khi ấy, nghề làm nem đã mai một nên không có sẵn; vì vậy, họ đã gửi lại tiền đặt người làng Bùi nuôi lợn làm nem. Tết Canh Dần 2010, nhà ông Thành đã xuất 40kg nem Bùi sang Pháp. Năm nay, họ yêu cầu làm nhiều hơn, nhưng cố gắng lắm, cũng chỉ làm được hơn một tạ. Không chỉ mấy ông khách Tây sành ăn, mà bây giờ đám cỗ của các nhà khá giả trong vùng cũng về làng đặt nem Bùi rất đông". Sau gần 40 năm thất truyền, nem làng Bùi đã được khôi phục lại, không chỉ ngày Tết mà những ngày thường nhà nhà lại rang, xay thính để thúc nem cho kịp phục vụ thực khách cả Tây lẫn ta.
Nem làng Bùi trở thành món quà quê được bao người trong và ngoài nước yêu thích. Vào mùa rét, nem Bùi được "xuất" đi nhiều nước làm quà như: Nhật Bản, Nga, Mỹ... vì mùa này mới gửi nem đi xa được, mùa nắng nem dễ bị ôi thiu nên những người xa quê chỉ chờ mùa đông Việt Nam để được thưởng thức món nem quê mình.
Theo QDND.vn
Tâm tình những người phụ nữ bán hoa trong ngày 8/3 Trong khi những người phụ nữ khác đang háo hức chờ đón những bó hoa, món quà từ người yêu, bạn bè, người thân thì họ vẫn hoà mình trong công việc mang niềm vui đến cho những mọi người bằng những bông hoa tươi thắm. Hãy lắng nghe họ, những người phụ nữ bán hoa, thổ lộ tâm tình trong ngày mà...