Người vô gia cư trên đất Hà Thành (Kỳ 5): Những “màn kịch chua xót”
Có lẽ, bao nhiêu người vô gia cư là bấy nhiêu thảm kịch đẩy họ ra khỏi lũy tre làng, khỏi mỗi mái ấm gia đình và dòng tộc, như ông Sơn, bà Mận…
Cuộc sống vô gia cư trong những túp lều tạm bợ giữa thủ đô. (Ảnh minh họa)
Có những người chấp nhận cuộc sống khốn khó vì vật chất thay cho việc ngày ngày bị những vết thương lòng gặm nhấm. Song, cũng có những người tự rời bỏ nếp nhà bình yên, quăng thân ra đầu đường xó chợ, để rồi đến cuối đời mới nhức buốt, mới xót xa ân hận trong… muộn màng.
Hai ông bà quen nhau trên đường lang thang; đi căng bạt dựng lều ven đường tàu “về với nhau để làm ông làm bà”
Trong túp lều tạm bợ căng lên ven đường sắt ở trung tâm Hà Nội (đoạn từ chỗ đường ray cắt với đường Nguyễn Thái Học đến đoạn cắt với đường Điện Biên Phủ), hai ông bà cụ Phạm Ngọc Sơn (78 tuổi), Chu Thị Mận (74 tuổi) tưng tửng kể cho chúng tôi nghe thảm cảnh cuộc đời mình. Nghe cứ như một cơn ác mộng. Bà Mận bảo bà cũng có quê quán, có nhà cửa đàng hoàng, nhà bà ở xã Vĩnh Hồng dưới tỉnh Hải Dương ấy. Bà vẫn hay về quê, nhưng mấy chục năm nay, bà cũng không biết hộ khẩu của mình có hay không và nếu có thì nó nằm ở đâu…
Trong câu chuyện dài hơn cả tiểu thuyết của đời mình, bà kể ngày xưa bà là vợ bộ đội hẳn hoi. Ông lên đường đánh giặc, bà ở nhà cày ruộng, nuôi nấng hai đứa con một trai, một gái. Hai vợ chồng chẳng bao giờ cãi vã hay to tiếng với nhau, khốn nỗi, một mình bà Mận phải chịu sự nanh ác của cả mẹ chồng lẫn chị chồng. Không hiểu vì sao mà mẹ chồng lại không ưa bà, lúc nào cũng tìm cớ đánh, chửi. Có lần, bà Mận bụng chửa vượt mặt đang lúi húi nấu cơm trong bếp thì mẹ chồng lôi ra chửi rồi đánh. Bà Mận uất quá mới giằng lấy cái que, thế là mẹ chồng bà lu loa rằng làng nước ơi, có đời thuở nhà ai mà con dâu dám đánh mẹ chồng. Ông anh chồng (là con bà cả, mẹ chồng bà Mận là vợ lẽ) chứng kiến từ đầu đến cuối nên mới bảo: “ Bà quá đáng thế, thím có làm gì đâu mà bà lại lôi thím ra đánh. Hôm nay có con chứng kiến, chứ không chú về, bà kể hơn kể kém, rồi thím lại bị chú đánh oan“.
Bà Mận vẫn nhớ rõ cái ngày ông Kích chồng bà về phép, hai vợ chồng còn đi tát nước ruộng lúa, cô con gái nhỏ ngồi ở đầu bờ. Thế mà một tối, chị chồng bà làm cơm, thịt hẳn con gà mái tơ rồi bảo ông Kích lên ăn cơm. Ăn cơm xong, bà ta bắt em trai phải bỏ vợ, vì bà ta vu vạ rằng em dâu đã tằng tịu với ông bác sĩ làng bên. Chả là dạo ấy, cậu con trai mới vài tuổi đầu của bà ốm đau quặt quẹo, bà đưa sang nhà ông bác sĩ ấy khám, rồi 2 – 3 tuần một lần bà lại lặn lội sang lấy thuốc về cho con. Bao nhiêu công thuốc thang, nhưng đứa con bé bỏng của bà vẫn không qua khỏi, nó mãi mãi 5 tuổi. Còn bà thì lại bị chị chồng vu là phải lòng ông bác sĩ.
Video đang HOT
Thế là ông Kích nghe lời vu vạ của chị gái, nhất quyết đòi bỏ bà. Bà không ký, bỏ lên Hà Nội xin làm công nhân ở ga tàu.Được một thời gian, người ta chuyển bà lên công trường sản xuất gạch ở Thái Nguyên. Chính bà cũng không ngờ được rằng, lần rời bỏ đó kéo dài cho đến tận ngày hôm nay. Khi đang làm công nhân nông trường gạch, bà nghe tin người chồng mà mình vẫn hằng thương yêu đã lấy vợ khác, bà lại nghe tin từ Tây Nguyên, đứa cháu là con của chị gái mình vừa chào đời đã mất. Đau đớn, mất mát, thù hận đã làm bà hóa điên. Bà nhảy xuống ao không biết bao nhiêu bận. Đau quá, đến lúc tỉnh lại, bà quyết định đi xa hơn – lên tận nông trường chè Hoàng Liên Sơn làm công nhân.
Làm ở nông trường chè được 3 năm, bà theo anh trai vào thăm chị gái ở Tây Nguyên rồi ở lại gần 2 tháng. Đến khi quay lại nông trường thì người ta không nhận nữa. Chúng tôi hỏi: “ Sao khi đó bà không về quê?“. Bà dửng dưng: “ Về làm gì? Lần trước bà về hỏi cái hộ tịch của bà, thì “nó” (ông chồng cũ) bảo là cắt rồi. Bà không muốn nhìn thấy cái mặt “nó”, không muốn trông thấy cả họ nhà “nó”. Cưới mấy đứa con “nó”, nhà chúng nó bảo về, nhưng bà về làm gì, nhìn thấy “nó” chỉ thêm uất…“
Thế là bà “dạt” từ Hoàng Liên Sơn xuống Hà Nội, ngày ngày mò cua bắt ốc ở Hồ Tây đem bán. Bấy giờ bà mới ngoài 30 tuổi. Bà may mắn ngủ nhờ được ở gian hàng đầu dốc Hàng Bún, bà đang cần chỗ ngủ, chủ hàng thì đang cần người trông coi. Thế là bà có chỗ ngủ mà không mất tiền. Đi lang bạt kỳ hồ như thế, không phải là bà không thương con xót cái, cái hồi bà bỏ lên nông trường chè, cái Tươi con bà đã nhèo nhẹo đòi theo, nhưng bấy giờ loạn lạc, thân bà còn chưa biết ra sao nên bà không thể để con phải chịu cảnh cù bơ cù bất như mình. Từ ngày lên Hoàng Liên Sơn đến đến nay, bà vẫn thường về quê, vội vàng thăm nom con cháu rồi lại lên Hà Nội.
Bà biết ông Phạm Ngọc Sơn từ lâu lắm rồi. Ông là thương binh, bị thương ở chân hồi chống Pháp, miền Bắc giải phóng, ông xin làm công nhân đường sắt ở Hà Nội. Đến 1965 ông tái ngũ, trong cuộc chiến chống Mỹ ấy ông lại bị đạn nó găm năm mảnh vào đầu (ông Sơn cho chúng tôi xem giấy tờ xác nhận của địa phương). Thương binh hạng 2/4 mang cái thân tàn ma dại về nhà ở Móng Cái – Quảng Ninh, ông “bắt sống” vợ đang “trai trên gái dưới” với tay chủ tịch xã. Đau quá, ông bỏ đi, lại lên Hà Nội. Ông lại xin làm gác tàu ở cái đường ngang này. Ngày ngày ông vẫn thấy bà gánh trai, gánh hến từ tận Hồ Tây xuống bán, cũng cám cảnh cho bà lắm, nhưng bấy giờ chỉ là sự thương cảm thôi. Mười hai năm trước, khi cả hai cùng có tuổi, cùng già yếu, cùng thương cái cảnh côi cút của nhau, hai ông bà mới về góp gạo thổi cơm chung theo đúng nghĩa đen. “ Đến với nhau để làm ông làm bà“, theo đúng nghĩa đen.
“Thỉnh thoảng tôi lại đặt tay lên ngực xem ông ấy có còn sống không”
Bên này đường ngang là cái lều tạm bợ của bà. Bên kia đường ngang là cái lều tạm bợ của ông. Tất cả đều vá víu, rách nát, bé mọn như chính cuộc đời của ông bà. Khi còn khỏe, bà vẫn lên Hồ Tây bắt trai, bắt hến. Nhưng mươi năm nay, cái lưng chưa còng mà bà chẳng thể gánh nổi hai miệng thúng trai ốc nữa. Đi xe ôm thì coi như công cốc, tiền kiếm được chẳng bao nhiêu. Bà chuyển sang đi nhặt phế liệu. Cứ từ 2 đến 4 giờ sáng hàng ngày là bà đi một vòng qua Nguyễn Thái Học, sang khu Văn Miếu, qua chợ Ngô Sĩ Liên, vòng qua Khâm Thiên lên khu Ga Hà Nội rồi lại về đường ngang. Bà bảo bà chỉ đi được giờ đó thôi, vì lúc ấy mới thưa xe, chứ đi những giờ khác, chân chậm mắt mờ, lỡ may xe nó va cho một cái thì chả hóa chết đường chết chợ à. Mà chết thế thì ai chăm ông Sơn, ông đau ốm liên miên, hai tháng trước còn tưởng ông chết, ông hay bị tắc mạch máu não cũng chỉ vì 5 mảnh đạn còn nằm lại trong đầu.
Bà có nhiệm vụ đi nhặt phế liệu bán lấy tiền đong gạo, ông có nhiệm vụ ở nhà, ngày hai bữa lôi cái bếp ga du lịch vừa gỉ vừa gãy ra để nấu cơm. Hai ông bà hai túp lều hai bên đường sắt, lắm bữa cơm chúng tôi ghé qua, vẫn ông ngồi lều ông, bà ngồi lều bà, hai người bưng hai bát cơm. Chỉ có những đêm dài ông Sơn đau ốm là bà sang lều bên kia, ngồi bên cạnh trông ông, ông yếu đến độ thi thoảng bà lại phải đặt tay lên ngực xem ông còn sống hay đã chết. Cả hai ông bà đều cay nghiệt khi nghĩ đến người đã từng là bạn đời phụ bạc. Cả ông và bà đều chưa từng nghĩ đến việc về quê, mặc cho con cháu khóc lóc, năn nỉ đến giận dỗi: “ Ông/bà đi như thế thì muối mặt chúng con.” Ở đây, ông bà còn có nhau để chia sẻ, còn có những người trên phố cảm thương, “người ta mang biếu ông bà thức ăn suốt ấy, có khi nguyên cả đĩa cá rán, không bao giờ có chuyện người ta ăn thừa mà mang cho đâu nhé“. Có người sợ ông bà buồn bèn mang cả ổ sáu con mèo mẹ con đến để ông bà vừa nuôi, vừa làm bầu bạn.
(Còn nữa)
Theo Xahoi
18 tuổi bị hãm hiếp ngoài xó chợ và thảm kịch 30 năm "quăng thân vào gió bụi"
Mai năm nay 43 tuổi, gầy giơ xương, mắt trũng sâu nanh nọc, mặt mũi hốc hác vô hồn. Ăn, ngủ, tắm giặt, mọi sinh hoạt ở đầu đường, xó chợ, gầm cầu, bãi sông...
Cuộc sống vô gia cư, lang bạt, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường. (Ảnh minh họa)
Hai "vợ chồng" nằm vỉa hè, không có tình dục vì cả hai đều bị bệnh xã hội
Người ta kể về cuộc đời ly kỳ nhiều hơn tiểu thuyết của chị, lúc đầu chúng tôi không tin. Rồi những đêm khuya nghiêng mình về sáng, rồi những ngày mưa gió bịt bùng nước ngập tứ phía, chúng tôi ngồi tâm sự với chị ở những góc vắng cô liêu của Hà Nội. Chị kể về việc mình bị "bọn chúng nó" bắt ăn một gói xôi rồi dí dao hãm hiếp ở xó chợ Đồng Xuân, bị đổ bệnh lậu, bị giang mai. Năm đó chị mới 18 tuổi, đang đi rửa bát thuê. Bệnh ấy đã mạn tính, đã ăn vào máu hầu như phải " sống với nó đến bao giờ mình không còn sống nữa thì thôi". Chị thú nhận cả lối sống trâng tráo bấy lâu nay: " Đời lang bạt dạy mình phải dám tắm truồng ở bãi xe Long Biên, dám nằm ngủ cởi truồng với tờ báo úp trên ngực ở vỉa hè phố Cầu Đông ngày nóng nực, mặc ông đi qua bà đi lại, như thế mới tồn tại được. Đố đứa nào dám bắt nhé".
Bệnh tật đầy mình, thi thoảng say thuốc lậu, giang mai, chị nằm bẹp rên hừ hừ. Giọng nói khàn như vịt đực vì bệnh giang mai biến chứng sùi lên cả họng. Anh Tiêu (thường gọi là "Bờm"), ông "chồng" hờ của chị (người ta bảo anh người Mê Linh, Hà Nội) cũng ngủ vỉa hè, đi nhặt rác cùng cảnh ngộ. Lúc anh đòi "chăn gối" không được cũng đá rác vỉa hè, đập cột điện góc đường tỏ ý bực dọc. Tương lai tăm tối, đường về quê bịt kín, đến cái việc "cưỡng chế" đem vào trung tâm bảo trợ xã hội bây giờ người ta cũng chán thèm "bắt cóc bỏ đĩa" những người như anh chị nữa. Chị Mai cứ vật vờ góc chợ Đồng Xuân, ra bãi sông Hồng, ngược chợ Cầu Đông, sang chợ Long Biên. Lúc nóng thì chị xin nước rửa bát, xách nước sông lên cọ cái bệ bê tông khai mù toàn phân và nước giải của những kẻ mắc bệnh "đái đường" ngoài gầm cầu để ngủ. Lúc rét thì chị vào góc chợ Cầu Đông, ngủ với anh chồng hờ Lê Văn Tiêu, chung một chăn chiên, mỗi đứa ngoảnh một đầu, cứ thế mà ngủ không có "đầu ấp tay kề" gì cả, bởi cả hai đều bị bệnh rất nặng ở bộ phận sinh dục...
Quê gốc ở dưới Ý Yên, tỉnh Nam Định, cô bé Mai bỏ nhà lang bạt lên Hà Nội là đủ thứ nghề nhọc nhằn kiếm sống từ năm 14 tuổi. Một thời gian sau, bà mẹ cũng bỏ quê lên đất Hà Nội cùng con. Bấy giờ chợ Đồng Xuân được coi là "cái ổ" với bao nhiêu điều mà chỉ có những người lấy vỉa hè, xó chợ làm nhà như mẹ con cô bé Mai mới may ra hiểu hết. Một thời, người Hà Nội có câu cửa miệng "kẻ cắp chợ Đồng Xuân" là thế. Chị Mai kể rằng: Bấy giờ ông bố đẻ chị bạc ác, theo gái, nhà nội có ý cướp đất, đuổi mẹ con chị ra... đường. Ông bà ngoại có 3 người con, người cậu ở quê chẳng có gì gọi là dư dả, dì út làm tạp vụ quét dọn ở một tòa báo trên Hà Nội suốt bao năm, nhưng không giúp mẹ con chị được cái gì. Bà ấy cũng chết cách đây vài năm.
Hồi năm 1984, xã hội còn khó khăn đủ bề, cô bé Mai 14 tuổi được người làng bên nhận về để trông em bé cho người ta. Bỗng dưng thấy người ta la làng kêu cứu, Mai bế đứa bé chạy đến ngó. Thì hóa ra vụ dây điện cao thế giật cháy đen hai người lớn. Đứa bé bắn ra vườn, Mai bị hút vào đó, thập tử nhất sinh. Mẹ chị dồn cả gia sản để chữa bỏng cho con đi - về từ bệnh viện. Gia đình đã nghèo, vì thế lại càng nghèo. Tâm lý tuổi mới lớn, đang ăn ngon mặc đẹp ở nhà chủ làng bên, nay người ta không nhận nữa, nhà lại thêm nghèo rớt mồng tơi. 14 tuổi, Mai bỏ nhà một mình bắt xe khách lên Hà Nội làm nghề rửa bát thuê.
Đời chị tàn tạ từ cái buổi bị hãm hiếp ở xó chợ
Ngoài những lúc rửa bát thuê ra, một mình Mai cứ lang thang khắp các xó chợ Đồng Xuân, Bắc Qua, Cầu Đông ngủ tạm. Mai quên mất mình đã bước sang tuổi thiếu nữ, đứa quen với nhà chủ đã bắt đầu để ý. Một đêm hiu hắt, cái thằng quen biết với chủ nhà ấy tìm đến "nhà trọ" của Mai, ai ngờ đó là xó chợ với tấm chăn bông cáu bẩn cuốn như tổ sâu. Cô chui vào đó như con rùa non chui xuống đám cỏ rối và cứ nghĩ đã an toàn.
Chuyện thế nào thì chỉ có giời mới biết, nhưng Mai hồi ức lại với tôi như sau: " Nó mang theo một gói xôi và một con dao nhọn. Lúc bấy giờ chị đang bị sốt, nằm rên hừ hừ, giữa lúc ngày hè mà cuốn mấy lần chăn bông vẫn lạnh. Nó bảo chị ăn xôi, coi như trả "tiền" cho cái việc hãm hiếp chị. Em bảo 18 tuổi thì đã biết gì cuộc đời đâu. Chị sợ lắm, sợ con dao thì ít mà sợ nó thì nhiều. Nó còn lật chăn ra để xem mặt chị, xem xong thì mới... hiếp. Hôm đó chị kêu khóc. Ngay bên cạnh chị có hai đứa "vô gia cư" như chị, chúng nó lớn tuổi hơn, nó quắp nhau như vợ chồng. Nó trông thấy thế cũng mặc kệ, không đoái hoài một câu nào, ý như thể "cho mày chết". Không ai cứu, cũng không biết kêu ai. Đời chị trượt dài từ ngày bị hãm hiếp . Hôm đó đang "thấy tháng", rất bẩn thỉu, mà nó cũng không tha. Sau vụ đó, chị bị đổ bệnh lậu, bệnh giang mai rất nặng.
Gần đây chị đi khám, bác sĩ bảo, nếu chữa từ hồi đó, nó "thay máu" đi thì sẽ sớm khỏi hẳn. Bây giờ hầu như không chữa được nữa. Càng khó chữa khi mà chữa gần khỏi thì lại quan hệ tình dục với người không an toàn. Thiên hạ bây giờ chất chứa lắm bệnh nhiều tật lắm. Bây giờ bệnh biến chứng đủ kiểu, ho rát cổ cả đêm cả ngày, viêm họng hạt rồi răng bị rụng dần, đau nhức. Bệnh lan vào đến phổi, sinh ra lao nặng. Các vết sùi ở chỗ kín phải đi viện đốt, đốt xong nó loét sâu phải uống kháng sinh liên tục. Không uống kháng sinh thì bệnh hoành hành, uống vào thì say thuốc, suốt ngày nằm một góc, nôn nao muốn lộn mửa cái dạ dày ra. "Cảm giác như người say xe ấy, không biết trời đất sao nữa, từ sáng tới tối mới ngớt say. Bệnh này, cực kỳ khó chịu, chị phải uống 6 triệu đơn vị kháng sinh mỗi đợt mới ngớt bệnh cơ".
Không làm gì thì chết đói. Không chỉn chu thu xếp thì bên trật tự phường người ta đi dọn dẹp cảnh quan, người ta lại thu đủ thứ xong nồi, quần áo, chăn màn của chị đem đi... đốt. " Tiếc quá, vừa bị thu mất mấy cái nồi, chị mua những 95 nghìn, nhịn ăn bao nhiêu bữa, đi nhặt rác bán cho người ta cả đêm mới mua được đấy. Chị toàn nấu cơm ở bãi chợ Long Biên, phía qua chợ rau, gần hàng cá ấy", có lần chị khoe với tôi.
Hôm sau chúng tôi mang tặng ít thuốc và cái nồi, chị Mai lại tiếp tục cằn nhằn vì cái bệnh lậu, giang mai: " Cái thằng mặt quỷ nhà chị (anh Tiêu, chồng hờ hiện nay) nó ghê lắm, nó cặp với cả bà 60 tuổi suốt mười năm trời, cả con bé chưa đầy 20 tuổi đang nuôi con mọn đi ăn xin, rồi theo cả đứa em gái con bé kia đi thuê nhà gần hai tháng trời, con bé kia phục thuốc chữa bệnh cho để "làm lại cuộc đời". Nó cứ ngang nhiên cặp với hết người này người khác ngay trước mặt chị, thế mà đời nó vẫn bật lại vỉa hè sống chồng vợ với chị đấy. Nó mang đủ thứ bệnh, đến vài tháng gần đây (tháng 8 năm 2013), chị mới cấm nó "gần gũi" chị đấy chứ. Nó cũng bị giang mai, bị lậu đến mức vô sinh. Vì thế chị với nó có phải dùng biện pháp tránh thai gì đâu, cứ vỉa hè, cứ "chung chăn" suốt mười mấy năm qua".
(Còn nữa)
Theo Xahoi
Trung tâm Hà Nội sẽ không còn ngập úng? Theo thống kê của Công ty TNHH một thành viên Thoát nước Hà Nội, đến nay thành phố còn khoảng 20 điểm úng ngập. Tuy nhiên, các điểm úng ngập hiện nay khác so với trước đây. Trao đổi với báo chí chiều 25/6, ông Nguyễn Lê, Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Thoát nước Hà Nội cho biết, đầu...