Người Việt chi 500 tỷ đồng mỗi năm cho thực phẩm hữu cơ nội địa
Trong đó, riêng mức tiêu thụ của Hà Nội và TP HCM là 400 triệu đồng, chiếm 80% lượng tiêu thụ của cả nước.
Theo Bộ NNPTNT, tổng mức tiêu thụ sản phẩm hữu cơ hàng năm của nước ta đạt khoảng 500 tỷ đồng, trong đó TP.HCM và Hà Nội đạt khoảng 400 tỷ đồng/năm.
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tiêu thụ trong nước chủ yếu ở dạng tươi sống. Ảnh: Foody.vn
Lý do chính khiến sản phẩm hữu cơ chủ yếu được tiêu thụ ở thành phố lớn do giá thành cao hơn hẳn sản phẩm trồng trọt chăn nuôi thông thường, khoảng 1,5 – 2 lần. Trên toàn quốc có 8.580 chợ, 958 siêu thị, 188 trung tâm thương mai và 4.000 siêu thị mini, cửa hàng, trong đó 15% chợ, 30% trung tâm thương mại và siêu thị kinh doanh sản phẩm hữu cơ. 85% sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ qua kênh bán lẻ.
Mặc dù tại các chuỗi siêu thị địa phương, những sản phẩm hữu cơ như gạo, rau, quả, thịt, hải sản… có doanh số bán hàng ngày càng tăng, thì vẫn không thể phủ nhận thực tế, việc tiêu thụ sản phẩm hữu cơ còn thấp do hiện nay việc chế biến các sản phẩm hữu cơ chưa được quan tâm đầu tư. Các sản phẩm tiêu thụ trong nước chủ yếu ở dạng tươi sống như gạo, rau, quả, tôm, rươi… Các sản phẩm hữu cơ xuất khẩu phần lớn mới chỉ ở dạng sơ chế như rau, quả, hồ tiêu, chỉ có một số ít như chè, tinh dầu dừa, tôm đã qua chế biến…
Việt Nam có gần 20 đơn vị xuất khẩu các loại rau, quả hữu cơ với sản lượng khoảng 260 ngàn tấn/năm, giá trị gần 15 triệu USD. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Pháp, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia, Mỹ, Ý, Đức, Anh, Nga, Canađa, Bỉ, Thái Lan, Malaysia, Hà Lan, HongKong.
Một số hàng thủy sản hữu cơ như tôm, cá tra cũng được khách hàng đánh giá tốt, mua giá cao hơn khoảng 30% so với thông thường. Tuy nhiên, sản lượng xuất chưa nhiều, giá trị khoảng 10 triệu USD.
Ngoài ra, Việt Nam còn các sản phẩm hữu cơ xuất khẩu khác đem lại giá trị hàng triệu USD như cà phê, gạo, điều, hạt tiêu. Nhìn chung thị trường xuất khẩu chưa khai thác hết tiềm năng, giá trị sản phẩm chưa cao do thiếu chế biến sâu và chưa có thương hiệu mạnh.
Theo Danviet
Làm nông nghiệp hữu cơ: Tốt nhưng tránh theo phong trào, ảo tưởng
Phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) đòi hỏi những yêu cầu khắc khe nên thị trường rất hạn chế. TS. Nguyễn Văn Bộ, nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho rằng cần ủng hộ sản xuất NNHC nhưng tránh tư duy phong trào, cực đoan và tạo ra ảo tưởng.
Ông có thể đánh giá sơ bộ vị trí của NNHC Việt Nam so với thế giới?
Video đang HOT
Thống kê cho thấy, trong 10 năm gần đây, sản xuất NNHC của Việt Nam tăng hơn 6 lần; từ 12.200 ha năm 2007 lên 77.000 ha năm 2016, song vẫn chỉ xếp thứ 3 trong khu vực Asean, sau Philipin (198.309ha) và Indonesia (126.014ha). Còn xét về cơ cấu, sản phẩm trồng trọt hữu cơ chỉ chiếm 45%, còn lại chủ yếu là sản phẩm thủy sản hữu cơ và thu hái tự nhiên.
TS. Nguyễn Văn Bộ, nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Nguyên Vỹ
Xem xét các sản phẩm tiềm năng của Việt Nam, chúng ta không có tên trong 10 nước sản xuất lương thực hữu cơ, cho dù thế giới có trên 400.000 ha lúa hữu cơ; 450.000 ha ngô hữu cơ. Chúng ta xuất khẩu cà phê thứ hai thế giới, song trên bản đồ cà phê hữu cơ cũng không có tên Việt Nam.
Dù có thế mạnh với đa dạng khí hậu, song diện tích rau hữu cơ chỉ đạt 192ha, chưa bằng 30% diện tích của Thái Lan. Rất may, chúng ta xếp thứ 4 thế giới về nuôi trồng thủy sản hữu cơ, song cũng chỉ có trên 10.000 ha (chiếm 2,6% so toàn cầu). Trong nước, NNHC vẫn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, không đáng kể trong tổng sản lượng nông nghiệp.
Như thế, NNHC Việt Nam có nhiều cơ hội không thưa ông?
Hiện nay, NNHC thực sự là cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam, nhất là khi giá bán các nông sản đang xuống thấp, chất lượng và VSATTP chưa được kiểm soát hiệu quả. Cơ hội cho phát triển NNHC sẽ ngày càng cao do nhu cầu trong nước và quốc tế tăng mạnh đối với những sản phẩm an toàn. Vì thế, một số sản phẩm hữu cơ đã có chỗ đứng vững trên thị trường như rau, chè, thịt hữu cơ...
Người tiêu dùng có nhu cầu ngày càng cao với những sản phẩm an toàn. Ảnh: Nguyên Vỹ
Quá trình tái cơ cấu nền nông nghiệp đang có xu hướng giảm diện tích gieo trồng lúa, giảm xuất khẩu gạo để gieo trồng nhiều hơn các giống lúa chất lượng, nâng cao tỷ lệ giống đặc sản, bản địa có chất lượng. Như vậy, cơ hội trở lại canh tác hữu cơ với một số giống lúa đặc sản bản địa là hiện hữu.
Với điều kiện tự nhiên đa dạng, NNHC có cơ hội cho ngành hàng rau, nấm, trái cây, dừa, chè, cây gia vị, cây làm thuốc, thủy sản, nuôi ong và một tỷ lệ nhất định với cà phê, hồ tiêu.
Vậy những thách thức nào còn chờ phía trước?
Đúng là sản xuất NNHC ở nước ta gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Trước hết, để đảm bảo an ninh lương thực, Việt Nam phải tăng năng suất và chỉ có con đường hóa học hóa. Đây cũng là xu thế của các nước đang phát triển.
Hai là, thách thức về thu nhập, sự phức tạp về quá trình sản xuất và giám sát, chứng nhận. Đa số nông dân chưa muốn chuyển đổi sang sản NNHC do sức hấp dẫn về thu nhập chưa được chứng minh, thị trường không được cam kết. Thêm vào đó, quy trình sản xuất khắt khe, chi phí sản xuất cao.
Đa số nông dân chưa muốn chuyển đổi sang sản NNHC do sức hấp dẫn về thu nhập chưa được chứng minh. Ảnh: Nguyên Vỹ
Ba là, thách thức về quản lý. Đến nay, nước ta chưa có khung pháp lý đồng bộ cho sản xuất, chứng nhận và giám sát quá trình sản xuất. Cho nên toàn bộ khâu chứng nhận phải thuê nước ngoài, rất tốn kém cho qui mô sản xuất còn nhỏ lẻ của chúng ta.
Bốn là thách thức về quy mô và hiệu quả sản xuất. Phần lớn các doanh nghiệp và hộ sản xuất NNHH còn nhỏ lẻ, chủ yếu dựa vào các dự án hỗ trợ của quốc tế, doanh nghiệp. Về tổng thể, chua có quy hoạch hay định hướng đối tượng cũng như thị trường cho sản phẩm hữu cơ... Mọi việc gân như tự phát.
Năm là, thách thức về môi trường. Bản thân sử dụng phân hữu cơ liều lượng cao cũng có những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như tích lũy kim loại nặng, vi sinh vật độc hại (trứng giun, E. coli...) hay quá trình phú dưỡng nguồn nước.
Vậy chúng ta nên có thái độ như thế nào đối với NNHC?
Nhìn vào sự phát triển của NNHC toàn cầu, có thể thấy rõ: thị trường NNHC tập trung ở các nước phát triển, thu nhập cao. Còn việc sản xuất thì tập trung ở các nước đất rộng, người thưa, không chịu áp lực về dân số, an ninh lương thực.
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư và sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ảnh: Nguyên Vỹ
Vấn đề quan trọng không phải chúng ta sản xuất gì mà là chúng ta sản xuất để bán cho ai, theo tiêu chuẩn nào và thu nhập phải cao hơn sản xuất theo phương pháp thông thường.
Do vậy, chúng ta cần ủng hộ những trang trại, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hữu cơ nếu hội đủ điều kiện về hạ tầng và thị trường. Vì phương thức canh tác này không chỉ cho ra sản phẩm an toàn mà còn giúp bảo vệ đa dạng sinh học, môi trường và mang tính xã hội sâu sắc.
Tuy nhiên, sản xuất sản phẩm gì, quy mô nào, theo chứng nhận của ai lại hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu của thị trường, tránh tư duy phong trào, cực đoan và duy ý chí, tạo ra ảo tưởng
Cần làm gì để phát triển NNHH thành công ở Việt Nam?
Trước hết, cần có sự lựa chọn chính xác chủng loại sản phẩm và vùng sản phẩm thích hợp cho các thị trường xác định. Trong đó ưu tiên sản phẩm đặc sản, bản địa, gắn với nông nghiệp du lịch tại các vùng ít bị ảnh hưởng bởi môi trường ô nhiễm. Chúng ta đang có lợi thế về các sản phẩm hữu cơ như thủy sản, dược liệu, mật ong, dừa và một phần cà phê, chè, cây ăn quả.
Nuôi trồng thủy sản là cơ hội tốt cho sản xuất sản phẩm hữu cơ. Ảnh: Nguyên Vỹ
Diện tích đất canh tác trên đầu người ở ta thuộc loại thấp, dân số tăng nhanh; trong khi diện tích mặt nước lớn mà chưa được khai thác nhiều. Do vậy, trồng trọt vẫn theo hướng thâm canh, hóa học hóa là chủ yếu. Còn nuôi trồng thủy sản lại là cơ hội tốt cho sản xuất sản phẩm hữu cơ với tỉ lệ cao. Cần sớm hoàn thiện bộ tiêu chuẩn sản phẩm thủy sản hữu cơ.
Thị trường là yếu tố quyết định đến sự thành bại của sản xuất NNHC Việt Nam. Phát triển NNHC đòi hỏi sự ủng hộ của Nhà nước và các địa phương bằng chính sách cụ thể, hiệu quả từ quy hoạch đến hỗ trợ chế biến và thương mại.
Cần tăng cường công tác phổ biến về vai trò của sản phẩm hữu cơ; nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, người sản xuất, người tiêu dùng và cả nhà quản lý về việc tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, giám sát, chứng nhận.
Về kỹ thuật cần có các chương trình nghiên cứu ổn định và cải thiện hàm lượng hữu cơ trong đất, tăng cường chu trình hữu cơ với việc tái sử dụng tối đa các nguồn chất thải chăn nuôi, trồng trọt.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
Thiếu thị trường, nông dân không mặn mà với sản xuất hữu cơ Tuy giá trị sản phẩm cao hơn nhưng năng suất kém, thời gian đầu phải bù lỗ nên nhiều nông dân không muốn làm sản phẩm hữu cơ. "Khi chúng tôi đến đặt hàng hợp tác xã cung cấp nguyên liệu hữu cơ, họ muốn công ty cam kết tiêu thụ hết nông sản bên cạnh vấn đề giá cả. Bởi nếu không...