Người Nghệ với Hoàng Sa – Trường Sa
Với những cứ liệu lịch sử đã được thu thập qua các tấm bản đồ, người dân xứ Nghệ đã góp phần khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo này là không thể bàn cải và không thể thay đổi. Hoàng Sa – Trường Sa là máu thịt của Việt Nam!
Trong nghìn năm mở mang bờ cõi, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa đã lưu dấu ấn của nhiều người con quê hương xứ Nghệ.
1. Trong cuộc hải chiến Gạc Ma ngày 14/3/1988, 64 người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã nằm lại ngoài biển khơi, lấy máu thịt của mình để khẳng định thêm một lần nữa chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Trong 64 người con ưu tú đó có 8 người con quê hương Nghệ An. Họ – tuổi đời còn rất trẻ đã không tiếc thân mình, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì sự toàn vẹn lãnh thổ của dải đất hình chữ S thân thương.
Liệt sỹ Trần Văn Minh – một người con Nghệ An đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.
Hòa bình rồi nhưng con dân nước Việt vẫn phải ngã xuống cho sự toàn vẹn lãnh thổ được đánh đổi bằng những máu xương của thế hệ cha ông. Ngày 18/1/2014, Trung úy Phan Văn Hạnh (SN 1980, quê xã Vĩnh Thành, Yên Thành, Nghệ An) ngã xuống khi đang làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ đảo Tốc Tan C (quần đảo Trường Sa). Tháng 10/2014, một người con xứ Nghệ khác là thượng úy Dương Văn Bắc (xã Nghĩa Dũng, Tân Kỳ, Nghệ An) hi sinh ở nhà giàn DK 1. Đó chỉ là số ít trong số hàng chục, hàng trăm người con đã ngã xuống nơi đầu sóng ngọn gió. Họ đã sống – chiến đấu và ngã xuống, giữa thời chiến hay thời bình, chỉ vì một lý tưởng cao nhất: Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ mà cha ông đã xác lập và giữ gìn suốt bao đời nay.
2. Ngược thời gian, trở về cách đây vài thế kỷ, dấu ấn của người Nghệ đã lưu lại trên hai quần đảo này. Nó như một bằng chứng, một cứ liệu lịch sử, một bẳng chứng đanh thép để khẳng định: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng để chúng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này. Những bằng chứng được xác lập từ lâu đời và không ai có thể chối cãi được.
Hoàng Sa và Trường Sa với tên gọi chung là “Bãi cát vàng” là hai quần đảo nằm trên biển Đông thuộc chủ quyền nước ta trong suốt hơn 600 năm lịch sử. Bởi theo các tài liệu chính thống thì vua Lê Thánh Tông đã cho vẽ bộ bản đồ toàn quốc mang tên “Hồng Đức bản đồ” vào năm Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), trong đó bao gồm các quần đảo ngoài biển Đông. Như vậy, Hoàng Sa – Trường Sa đã được nhà nước phong kiến Việt Nam đưa vào bản đồ từ cuối thế kỷ XV.
Lính Nghệ ở Trường Sa (ảnh Hoàng Trần).
Trong nhiều bộ thư tịch của nước ta viết về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa dưới hai triều đại Lê và Nguyễn thì số tác phẩm do người Nghệ biên soạn (hoặc tham gia biên soạn) chiếm số lượng rất lớn.
Trong đó phải kể đến bộ “Thiên Nam Tứ chí lộ đồthư” của Đỗ Bá Công Đạo – một người con xã Thanh Mai, huyện Thanh Chương. Trong khoảng những năm Chính Hòa (1680 -1705), Đỗ Bá Công Đạo giả dạng lái buôn dong thuyền vượt biển vào Nam. Khi đã khảo sát kĩ càng, ông vẽ bản đồ các nơi ở xứ Đàng Trong. Các bản đồ của ông được tập hợp trong 4 tập của “Tứ chí lộ đồ”.
Trong đó, “Bãi cát vàng” được ghi chép một cách cụ thể như sau: …Giữa biển có một quần đảo dài 400 lý và rộng 200 lý có tên là “Bãi cát” vàng nhô lên từ đáy biển hướng về phía duyên hải giữa hai cảng Đại Chiêm và Sa Vinh. Vào mùa mưa Tây Nam, các thuyền buôn từ các quốc gia khác nhau qua lại gần bờ thường bị đắm ở các khu vực quần đảo này… Mỗi năm trong suốt tháng cuối cùng của mùa đông, các chúa Nguyễn đều phái tới đảo này một hạm đội gồm 18 tàu buồm để vớt các chiếc tàu đắm… Từ cảng Đại Chiêm phải đi mất một ngày rưỡi mới đến quần đảo này, trong khi chỉ mất có một ngày nếu đi từ Sa Kỳ…” (*). Như vậy có thể khẳng định, 2 quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam từ rất lâu trước những năm 1680.
Video đang HOT
Tấm bản đồ do Đỗ Bá Công Đạo vẽ từ thế kỷ XVII với dòng chữ “Bãi Cát vàng” – biểu thị quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa do Chúa Nguyễn quản lý.
Trong cuốn “Đại Việt sử kỳ tục biên” do 7 vị đại thần biên soạn dưới lệnh của Chúa Trịnh Sâm thì người làm toản tu cho bộ sử này cũng là một đại thần quê Nghệ An – Phạm Nguyễn Du. Trong sự nghiệp quan trường, Hoàng giáp Phạm Nguyễn Du (quê xã Nghi Xuân, Nghi Lộc) được thăng tới chức Đông các đại học sỹ và được Chúa Trịnh Sâm cho tham gia vào việc biên soạn sử. Trong bộ “Đại Việt sử ký tục biên” do ông cùng 6 vị đại thần khác biên soạn có phần chép như sau: “…trong đảo có Bãi cát vàng dài ước 30 dặm, bãi phẳng nước trong. Đảo có vô số tổ yến, ở bãi cát lại có ốc vằn, tục gọi là ốc tai voi, ốc xà cừ, ốc hương và hải trùng, hải sâm, đồi mồi… Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật…”.
Trong bộ sách “Đại Nam thực lục” ghi chép sự kiện lịch sử từ 9 đời Chúa Nguyễn đến hết đời vua Khải Định cũng có sự tham gia đóng góp của nhiều sử quan người Nghệ An như Nguyễn Trung Mậu, Cao Xuân Dục và con trai Cao Xuân Tiếu (đều người Diễn Châu). Phần Tiền biên của bộ sách này ghi rõ: “…Tháng 7 mùa thu năm Giáp Tuất (1753), dân đội Hoàng Sa gặp gió to, dạt vào hải phận Quỳnh Châu thuộc nhà Thanh. Quan Tổng đốc nhà Thanh chu cấp đầy đủ rồi đưa về, Chúa sai viết thư gửi qua.
Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có 130 cồn cát, cách xa hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh, chiều dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa Châu, trên có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba. Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng 3 cưỡi thuyền ra đảo, ba ngày ba đêm tới nơi, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân Tư Chính, Bình Cố hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh cưỡi thuyền nhỏ ra các đảo Côn Lôn ở Bắc Hải thu lượm, cũng do đội Hoàng Sa cai quản luôn”.
Cán bộ, chiến sỹ là người Nghệ An tại đảo Đá Tây C đón khách từ đất liền ta thăm (ảnh Hoàng Trần).
Phần “Chính biên”ghi chép cụ thể và chi tiết hơn: “…Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), vua ra lệnh cho thủy quân đi thuyền ra đảo Hoàng Sa để khám xét và đo đạc hải trình”. “Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 15 (1834), sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sỹ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền tới đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ”.
Như vậy, trong bộ chính sử của nhà nước, Hoàng Sa, Trường Sa là một đơn vị hành chính cụ thể trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Về việc vẽ bản đồ đối với quần đảo này được ghi rõ trong phần “Chính biên”: “Đảo Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta, đây là nơi hiểm yếu, trước đã từng sai vẽ bản đồ, nhưng vì hình thể xa rộng nên chỉ mới vẽ được một số chỗ, vả lại cũng chưa biết làm thế nào cho rõ. Hàng năm thường phái người đi khắp cả để biết tường tận đường biển. Kể từ năm nay về sau mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọn phái thủy quân đội mũ cùng giám thành đáp một chiếc thuyền nhằm thượng tuần tháng 2 đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, khiến họ dẫn đường ra đảo Hoàng Sa….
Từ các tư liệu này, vua Minh Mạng sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền mang theo mười cái bài gỗ ra Hoàng Sa dựng bài lên làm dấu. Mặt bài khắc chữ “Năm Minh Mạng thứ 17, Bính Thân (1836), Thủy đội Trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ.”
Trong bộ”Đại Nam nhất thống chí” do Cao Xuân Dục làm tổng tài phụ trách việc biên soạn, quyển chép về tỉnh Quảng Ngãi có ghi: “…Trên đảo có bãi Trường Sa kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục danh là Vạn Lý Trường Sa…”. Trong”Quốc triều chính biên” (cũng do Cao Xuân Dục làm tổng tài phụ trách biên soạn) ghi chép: “…Dựng đền thờ Thần Hoàng Sa ở Quảng Ngãi. Hải phận Hoàng Sa ở Quảng Ngãi có một cồn cát trắng, nơi ấy cây cối xum xuê, tươi tốt. Ở trong cồn cát có một cái giếng. Phía Tây Nam có một ngôi miếu cổ, bia đá có khắc 4 chữ “Vạn lý ba bình” (muộn dặm sóng yên). Cồn cát trắng kia có tên là Phật Tự Sơn (núi chùa Phật)… Ra lệnh xây miếu và dựng bia chỗ này, trước miếu có xây bình phong…”.
Không chỉ xác lập chủ quyền bằng việc cử người ra làm dấu hay cho xây dựng đền thờ mà triều Nguyễn còn cử người ra cứu tàu buôn nước Anh mắt cạn tại bãi Hoàng Sa vào tháng 12 năm Bính Thân. Ngoài ra Vua còn sai người tìm nơi sở, cấp tiền gạo cho đoàn thủy thủ gồm 90 người của tàu buôn nước Anh đồng thời cho người dẫn đường về nước.
Cùng với nhiều cứ liệu lịch sử khác, người Nghệ đã góp phần khẳng định chân lý: Trường Sa – Hoàng Sa là máu thịt của Việt Nam! Cùng với cán bộ, chiến sỹ, nhân dân cả nước, người dân Nghệ An sẵn sàng hiến dâng máu của mình để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền biển đảo Việt Nam!
Hoàng Lam
Bài viết có tham khảo các tài liệu:
1. Trần Bá Chí, Người vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa thế kỷ XVII – Đỗ Bá Công Đạo với bản đồ Bãi cát vàng (Hoàng Sa), Tạp chí Hán Nôm số 6 (56), năm 2012.
2. Nguyễn Huy Mỹ, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Huy Quýnh, Cuộc đời và thơ văn, NXB Lao Động, 2012.
3. Quốc sử viện triều Lê, Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), NXB Văn hóa Thông tin, 2011.
4. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Giáo dục.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, NXB Giáo dục.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, NXB Lao động.
8. Trần Nam Tiến, Hoàng Sa Trường Sa, hỏi và đáp, NXB Trẻ, 2011.
Theo Dantri
Từ Len Đao, Cô Lin nhớ Gạc Ma
Cần nói về ngày 14/3/1988 không phải chỉ để khơi gợi lại một sự kiện, mà để thêm tự hào, kính phục đối với những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Để các thế hệ không có lỗi với các liệt sĩ và đồng đội của họ.
Anh hùng Vũ Huy Lễ và đồng đội tàu HQ-505 sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đóng giữ bãi đá Cô Lin. Ảnh: Nguyễn Viết Thái.
Mong linh hồn con siêu thoát
Hôm nay, 14 tháng 3, vừa tròn 27 năm ngày 64 sỹ quan và chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh, 3 tàu vận tải của ta bị tàu Trung Quốc bắn chìm, bắn cháy ở các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin thuộc huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa.
"Cha mẹ Võ Ta - Phan Thị Đay tưởng nhớ con Tuấn đã hy sinh ở Trường Sa ngày 14/3/1988. Mong linh hồn con siêu thoát". Tôi nhớ đến đôi tay run run của cụ Võ Ta ở thôn Phú Hữu (xã Ninh Ích, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) khi cụ tự tay viết những dòng thư ấy, nhờ tôi mang ra vùng biển Gạc Ma hóa vàng cuối năm 2010. Tôi nhớ đến hình ảnh cụ Phan Thị Đay ngồi bất động rất lâu trước bia ghi tên liệt sỹ hy sinh tại Trường Sa ở Tượng đài Cam Ranh, ánh mắt cụ như hướng đến một nơi xa, rất xa. Con trai của hai cụ, anh Võ Đình Tuấn đã cùng đồng đội kết thành "vòng tròn bất tử" trên đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988.
Tôi nhớ đến hình ảnh người yêu của anh Võ Đình Tuấn đã đứng yên lặng thật lâu, trước Tượng đài Cam Ranh. Tôi nhớ đến sự lặng lẽ, âm thầm của chị Đỗ Thị Hà, vợ của Trung úy liệt sĩ Đinh Ngọc Doanh, trong những buổi chúng tôi cùng chị viếng Tượng đài Cam Ranh. Khi người đồng hương Hoa Lư, Ninh Bình của tôi, liệt sỹ Đinh Ngọc Doanh ra xây dựng đảo Gạc Ma và hy sinh ở đó ngày 14/3/1988, con gái của anh, Đinh Thị Mỹ Lệ mới hơn 1 tuổi. Từ ngày đó đến nay, chị Hà ở vậy thờ chồng, làm mọi việc, kể cả phụ hồ để nuôi con nên người. Và tôi nhớ đến giọt nước mắt trên má bà Nguyễn Thị Hằng ở thành phố Đông Hà (Quảng Trị) khi bà nhắc tới con trai, liệt sĩ Hoàng Ánh Đông...
Đảo Cô Lin gần đảo Gạc Ma đang bị Trung Quốc chiếm đóng. Ảnh: Nguyễn Đình Quân.
Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin trong tổng thể CQ88
Nói về ngày 14/3/1988, cần nói đầy đủ các diễn biến ở Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin, và đặt trong tổng thể chiến dịch CQ88 (Chủ quyền 88). Đó là điều cần làm, để khơi dậy lòng tự hào, sự kính phục, sự tri ân với những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.
Nhắc tới ngày 14/3/1988 là nhắc tới những mất mát, đau thương ở Gạc Ma, là nước mắt. Nhưng không chỉ có thế. Tôi nhớ tới giọng nói oang oang của anh Uông Xuân Thọ, nguyên Thượng úy, Máy trưởng tàu HQ-605 khi anh kể về ngày 14/3/1988 bi tráng: Ngày 11/3/1988, tàu HQ-605 hoàn thành chuyến tiếp vận cho các đảo chìm vừa được quân ta đóng giữ là Tốc Tan, Núi Le..., về đảo Đá Đông trên đường về Cam Ranh.
Nước ngọt, lương thực thực phẩm đã chuyển hết cho các đảo, tàu chỉ giữ lại mức đủ dùng cho mấy ngày hành quân về bờ. Bất ngờ, thuyền trưởng tàu HQ-605, Đại úy Lê Lệnh Sơn nhận được mật lệnh của Phó đô đốc, Tư lệnh Hải quân kiêm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân Giáp Văn Cương, phải cấp tốc đóng giữ đảo Len Đao vào sáng sớm ngày 14/3/1988. Tàu HQ-605 đã khẩn trương thực hiện mệnh lệnh, cắm được quốc kỳ Việt Nam trên bãi đá Len Đao vào sáng sớm ngày 14/3/1988. Mặc dù sau đó tàu HQ-605 bị các tàu Trung Quốc bắn cháy rồi chìm, thuyền phó Phan Hữu Doan và báo vụ Bùi Duy Hiển hy sinh, sĩ quan chiến sĩ của tàu vẫn bình tĩnh giữ được đảo Len Đao và cùng nhau đưa thương binh tử sĩ về đảo Sinh Tồn an toàn.
Tôi nhớ tới nụ cười rạng ngời của Anh hùng Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu HQ-505 và đồng đội sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đóng giữ bãi đá Cô Lin. Sáng ngày 14/3/1988, tàu HQ-505 bị các tàu Trung Quốc bắn pháo dữ dội, khiến tàu hỏng máy. Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ chỉ huy khẩn trương sửa máy, rồi lệnh chạy cả hai máy tàu, ủi bãi Cô Lin để vừa cứu tàu, vừa giữ đảo. Hơn 8 giờ sáng ngày 14/3/1988, tàu HQ-505 trườn được hai phần ba thân lên bãi Cô Lin thì bốc cháy. Lực lượng trên tàu vừa triển khai dập lửa cứu tàu, bảo vệ bãi Cô Lin, vừa đưa xuồng đi cứu vớt đồng đội ở phía bãi Gạc Ma...
Ngày 14/3/1988, những người lính Việt Nam can trường đã bảo vệ được đảo Len Đao và đảo Cô Lin, quân Trung Quốc chỉ chiếm được đảo Gạc Ma. Gọi sự kiện xảy ra ngày 14/3/1988 là "hải chiến Gạc Ma" là không đúng, việc gọi như vậy dễ làm sai lệch nhận thức, hiểu biết của nhiều người về sự kiện ngày 14/3/1988.
Nói về ngày 14/3/1988, cần nói đầy đủ các diễn biến ở Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin, và đặt trong tổng thể chiến dịch CQ88 (Chủ quyền 88). Đó là điều cần làm, để khơi dậy lòng tự hào, sự kính phục, sự tri ân với những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, để chúng ta không có lỗi với các chiến sỹ đã hy sinh và đồng đội của họ.
Theo Nguyễn Đình Quân
Tiền Phong
Ngày mai đặt viên đá đầu tiên xây dựng Khu tưởng niệm Chiến sĩ Gạc Ma Ngày mai (13/3), tại Công viên Biển Đông, bán đảo Cam Ranh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa sẽ tổ chức đặt viên đá đầu tiên xây dựng Khu Tưởng niệm Chiến sĩ Gạc Ma đã hy sinh trong công cuộc bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc. Khu tưởng niệm...