“Người Hà Nội đã đến”
Đó là một trong những nhan đề mà báo chí Thái Lan viết về sự kiện Việt Nam mở Đại sứ quán tại Bangkok, tháng 2/1978, trong thời điểm vô cùng nhạy cảm, khiến báo chí nước này tốn nhiều giấy mực.
Báo chí Thái Lan viết về sự kiện Việt Nam mở Đại sứ quán tại Bangkok
40 năm sau ngày trở thành người ghi dấu ấn trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam – Thái Lan với chuyến đi tới Bangkok tiếp quản toà đại sứ của chính quyền Sài Gòn, với nguyên Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Đỗ Ngọc Dương, những gian truân, căng thẳng và tự hào ngày ấy vẫn vô cùng sống động. Trong căn nhà nhỏ trên con phố tĩnh lặng ở Hà Nội, vị Đại sứ gần 90 năm tuổi đời, 70 năm tuổi Đảng, đã kể lại chuyến đi thượng cờ Tổ quốc tại Bangkok với giọng nói đầy hào sảng. Với ông, tất cả như mới chỉ vừa diễn ra ngày hôm qua.
Đại sứ Đỗ Ngọc Dương nhớ lại: Trước 1973, Thái Lan chưa có quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thời điểm này, Mỹ đã mua lại một căn biệt thự rộng lớn của một nhà tư sản Thái làm nhà riêng cho Ngô Đình Diệm tại Bangkok. Căn nhà này nằm đối diện với nhà riêng của Đại sứ Mỹ tại Thái Lan trên đường Wireless.
Gian nan vì đảo chính
Sau khi chính phủ dân sự mới được thành lập ở Thái Lan năm 1973, Bangkok tỏ ra trung lập hơn trong các động thái với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và hai bên đã có những cuộc thảo luận để tiến hành trao đổi cơ quan đại diện ngoại giao, dù chưa đạt được kết quả mong muốn. Năm 1975, sau khi Việt Nam thống nhất, thực hiện công ước Vienna 1961, toà Đại sứ của Việt Nam Cộng hoà trên đường Wireless được Thái Lan niêm phong cũng như trụ sở cơ quan đại diện ngoại giao của Thái Lan tại Sài Gòn được bảo vệ cẩn thận, cho đến khi Bangkok và Hà Nội đạt được các thoả thuận về trao đổi cơ quan đại diện.
Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra chính sách Bốn điểm trong quan hệ với các nước Đông Nam Á. Để thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Thái Lan, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã mời Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Bhichai Rattakul thăm chính thức Việt Nam (từ ngày 3-6/8/1976). Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký hai bản thông cáo chung, trong đó có thỏa thuận thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi đại diện ở cấp Đại sứ. Tuy nhiên, khi hai bên chưa kịp tiến hành thoả thuận này thì tháng 10/1976, một cuộc đảo chính quân sự lại diễn ra tại Thái Lan khiến tiến trình thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị gián đoạn.
Đến đầu năm 1978, nhận lời mời của Thủ tướng Thái Lan Kriangsak Chomanan, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã có chuyến thăm chính thức tới Thái Lan (từ ngày 9-12/1/1978). Chuyến thăm đã đạt được kết quả tốt đẹp với nội dung bản Thông cáo chung hai nước ngày 12/1/1978, nêu rõ: Hai bên thỏa thuận sẽ lập Đại sứ quán và trao đổi Đại sứ càng sớm càng tốt.
Trọng trách người đi mở sứ quán
Khi Tết Nguyên đán Mậu Ngọ đã đến gõ cửa từng nhà, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh chỉ đạo Bộ Ngoại giao khẩn trương lập Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan. Ông nói: “Thái Lan có vị trí quan trọng ở khu vực và là cửa ngõ để ta tiến hành quan hệ với các nước khác ở Đông Nam Á và các nước phương Tây… Việc gì có thể làm được thì làm ngay vì mọi động thái trong quan hệ giữa ta và Thái Lan đều ảnh hưởng đến tình hình khu vực”.
Thời gian này, sau khi hoàn thành nhiệm kỳ công tác Việt Nam tại Indonesia, ông Đỗ Ngọc Dương về nước và được giao làm Tổ trưởng Tổ Thái Lan, thuộc Vụ Đông Nam Á. Vì thế, ông được Lãnh đạo Bộ giao nhiệm vụ làm Tham tán, Đại biện lâm thời Việt Nam tới Bangkok tiếp quản toà Đại sứ của Việt Nam Cộng hoà và mở Đại sứ quán Việt Nam tại đây. Hai tuần sau, việc chuẩn bị hoàn tất, ông Đỗ Ngọc Dương cùng sáu cán bộ khác lên đường sang Vientiane vào chiều 28 Tết và tới Bangkok vào đúng chiều mùng 2 Tết.
Video đang HOT
Ông Đỗ Ngọc Dương nhớ lại: “Dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước nhưng tôi choáng ngợp bởi không khí tác nghiệp đầy căng thẳng của báo chí Thái Lan và phương Tây trước sự kiện này, ngay khi bước chân xuống sân bay Don Muang”.
Thượng cờ Tổ quốc trên đất Thái
Khi Đoàn đến Bangkok, có khoảng 30 nhà báo phương Tây đang chờ tại sân bay. Sáu giờ tối, Đoàn về tới tòa Đại sứ tại đường Wireless. Ông Đỗ Ngọc Dương bước lên cầu thang và đưa tay mở cánh cửa tòa Đại sứ. Báo chí Thái Lan đã chụp được cảnh này. Hôm sau, bức ảnh được đăng lên trang nhất với dòng chú thích: “Cánh cửa Đại sứ quán Việt Nam đã mở. Ông Đỗ Ngọc Dương, tham tán, đại biện và một đoàn tùy tùng gồm sáu người chiều qua đã đến Bangkok. Chúng ta chờ xem ông ta sẽ làm như thế nào?”
Có lẽ, tòa Đại sứ tại đường Wireless (Bangkok) là một trong những tài sản ở nước ngoài cuối cùng của chính quyền Sài Gòn mà phía Việt Nam tiếp quản. Do tình hình chính trị luôn biến động của Thái Lan và khiến ba năm sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, lá cờ đỏ sao vàng mới chính thức tung bay trên nóc toà nhà này.
Khi ông Đỗ Ngọc Dương trình ủy nhiệm thư tới Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Upadit Pachariyangkhun. Bộ trưởng Upadit nhận định: “Đây là một bước phát triển rất quan trọng trong quan hệ giữa hai nước, mở ra một thời kỳ mới nhằm thúc đẩy việc phát triển tình hữu nghị và sự hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Tên Ngài sẽ được ghi vào lịch sử ngoại giao hai nước như người đại diện đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam thiết lập Đại sứ quán ở Thủ đô Bangkok”.
Ngay sau đó, ông Đỗ Ngọc Dương tổ chức lễ thượng cờ. Khi lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên, báo chí Thái Lan cũng ghi được cảnh này. Hôm sau, hình ảnh lễ thượng cờ của Đại sứ quán Việt Nam tiếp tục được đăng lên trang nhất với dòng chú thích: “Lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên tòa nhà Đại sứ quán Việt Nam. Cách đây gần ba năm, cũng tại cột cờ này có một lá cờ màu vàng với ba vạch đỏ. Lá cờ ấy không ai hạ xuống và nó tự nát đi trong sương gió. Giờ đây, nó đã được thay bằng một lá cờ đỏ sao vàng”.
Việc thiết lập Đại sứ quán Việt Nam tại Bangkok đã khiến cộng đồng người Việt tại đây vô cùng hân hoan. Chỉ hai tháng sau đó, kiều bào tại Thái Lan đã tự quyên góp được khoảng 10 triệu bath để xây dựng cho Đại sứ quán một ngôi nhà làm việc ba tầng, mỗi tầng có mười phòng trong khuôn viên rộng rãi của Đại sứ quán.
Theo Đại sứ Đỗ Ngọc Dương, đó là minh chứng cho truyền thống yêu nước, luôn hướng về quê hương hết sức quý báu của kiều bào Việt Nam tại Thái Lan. Truyền thống đó đã được Bác Hồ gây dựng từ rất sớm và gìn giữ đến tận ngày nay.
Theo Thiên Đức (ghi)
Thế giới và Việt Nam
Trong ảnh: Phó Vụ trưởng Vụ Lễ tân Thái Lan Sala Sivalak đón Đại biện Việt Nam Đỗ Ngọc Dương (trái) tại sân bay. “Một chuyên gia về châu Á từ Hà Nội, ông Đỗ Ngọc Dương, đến đây tối qua để đứng đầu Đại sứ quán Việt Nam tại Bangkok
Ông Dương đi cùng với sáu nhân viên của mình, chia sẻ với báo chí về chuyến đi tới Thái Lan của mình, tại sân bay Don Muang, rằng: “Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan sẽ sớm được bổ nhiệm và sẽ đến đây không lâu sau đó”. Ông Dương, người sẽ đảm nhận vai trò Đại biện tại Đại sứ quán Việt Nam nói rằng, Việt Nam sẽ tôn trọng năm nguyên tắc cùng chung sống đồng thuận trong xử lý xung đột biên giới giữa Việt Nam và Campuchia…” (Trích từ tin trên báo chí Thái Lan về sự kiện ông Đỗ Ngọc Dương đến Bangkok)
Theo dantri
Trải nghiệm đi lên từ số không
Trong những hồi ức nhiều màu sắc về năm tháng hoạt động ngoại giao sôi động của ông Nguyễn Hữu Chủ, 68 tuổi, câu chuyện tiếp quản Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại tokyo sau ngày 30/4/1975 vẫn luôn khiến ông bồi hồi...
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (giữa) thăm Đại sứ quán Việt Nam tại Tokyo, tháng 12/1978. (ông Nguyễn Hữu Chủ là người thứ ba từ trái)
... Về mối lương duyên Việt Nam - Nhật Bản, về những đồng nghiệp cũ - người còn, người đã ra đi...
Theo lời kể của ông Nguyễn Hữu Chủ, ngay sau Ngày thống nhất đất nước, Bộ Ngoại giao ta đã nhờ Đại sứ quán Cuba tại Nhật Bản trông giữ Đại sứ quán Việt Nam tại Tokyo cho đến tháng 1/1976, khi đoàn cán bộ ngoại giao Việt Nam chính thức sang tiếp quản...
Sứ mệnh đặc biệt
Vào thời điểm ấy, trong số 13 cán bộ thuộc biên chế của Đại sứ quán Việt Nam, ông Chủ gần như trẻ nhất (chưa đầy 30 tuổi) và là người duy nhất chưa từng kinh qua nhiệm kỳ công tác nước ngoài nào... Ông cùng với hai đồng nghiệp là ông Vi Minh Tân - điện báo viên và Khổng Khuê - Trưởng phòng Thông tin Bộ Ngoại giao có một "sứ mệnh" đặc biệt là "chuyên chở máy điện đài rất cồng kềnh, nặng mấy tạ" sang Nhật Bản. Đó là lý do mà ba ông phải đến xứ sở Hoa anh đào bằng tàu biển. "Tiền cước đâu mà đi máy bay chứ", ông Chủ cười hiền.
Ông còn nhớ thuyền trưởng của chuyến tàu đấy là ông Cao Trọng Tùng, quê ở Nghệ An và đây là lần đầu tiên vị thuyền trưởng này đi viễn dương. Cho nên, "chao ôi là hồi hộp và cả lo lắng nữa", ông Chủ không sao quên được cảm giác đó, nhất là đối với một chàng trai mới cưới vợ được vài tháng và lần đầu tiên đón một cái Tết không hề ấm áp ở Hong Kong...
Sau mấy ngày lênh đênh trên biển, khi tàu cập cảng Naoetsuko ở phía Bắc Nhật Bản, đoàn được ông Inoue ở Cục châu Á, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đón tiếp nhiệt tình và nồng hậu. "Người Nhật mà, lúc nào họ cũng chu đáo, tận tụy và khiêm tốn", ông Chủ đúc kết về con người Nhật Bản nói chung mà ông vô cùng ngưỡng mộ.
Tiếng Nhật có thể không xa lạ với ông Chủ vì ông đã có gần năm năm học tập chuyên về Nhật Bản tại CHDCND Triền Tiên (1967-1972) song những ấn tượng "mục sở thị" đầu tiên về đất nước Mặt trời mọc vẫn khiến ông "choáng". Một đất nước rất hiện đại, thể hiện ở những chiếc tivi màu ông nhìn thấy ở khắp nơi hay sự văn minh của đường phố - xe ô tô đi ngoài đường lúc 12 giờ đêm đều tự giác dừng lại khi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ...
Không sai sót
Đại sứ quán Việt Nam tại Tokyo khi ấy là một ngôi nhà gỗ nằm trên một quả đồi, rộng 2.200 m2. Trong tám tháng (5/1975 đến 12/1975), các bạn Cuba giúp mình trông nom, dọn vườn, chặt cây... cho đến khi đoàn cán bộ ngoại giao Việt Nam sang vào đầu năm 1976.
Người đứng đầu cơ quan đại diện lúc đó là Đại biện lâm thời Trần Đức Tuệ và đến tháng 7/1976, Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Nhật Bản là ông Nguyễn Giáp đến Tokyo. Nhiệm vụ của ông Chủ bấy giờ là phiên dịch, lễ tân và giúp ông Lê Minh Hương, Bí thư thứ hai về công tác lãnh sự, Việt kiều. Cùng làm phiên dịch với ông Chủ còn có ông Nguyễn Hữu Sự...
Ông Chủ còn nhớ như in cảm giác vinh dự khi là một trong những người đầu tiên treo cờ đỏ sao vàng ở Đại sứ quán. Cảm giác tự hào lắm mỗi khi nhìn tấm biển bằng đồng đúc chữ "Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản" bằng tiếng Việt và tiếng Nhật. "Cả cờ và tấm biển đều mang từ Việt Nam sang vì nếu làm ở Nhật thì đắt lắm", ông Chủ cho biết.
Một trong những điều tâm đắc nhất của ông Chủ về những tháng ngày đầu tiên tiếp quản đại sứ quán là việc đi lên từ con số không mà không mắc phải sai sót nào. Tiếp quản Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa đồng nghĩa với việc không có sự bàn giao kinh nghiệm. Vậy mà các hoạt động ngoại giao của cơ quan đại diện diễn ra rất trơn tru và êm thấm.
Ông đơn cử một chi tiết như Đại sứ quán Việt Nam có nhận thư mời của Đại sứ quán Hàn Quốc tại Nhật Bản tham dự một sự kiện của họ. Câu chuyện tưởng chừng đơn giản trong bối cảnh hiện nay nhưng lại khá "tế nhị" ở thời điểm bấy giờ, khi quan hệ Việt Nam và Hàn Quốc không hề thuận lợi. Các sự kiện của phía Hàn Quốc đều được phía Việt Nam cân nhắc. Thậm chí khi nhận được giấy mời, mình còn hỏi ý kiến của các bạn Cuba. Tương tự như vậy với Đài Loan, phải hết sức thật trọng...
Tự hào Việt Nam
Là người tham gia công tác cộng đồng của Đại sứ quán, ông Chủ cũng nhớ như in cái Tết đầu tiên ở Tokyo do Đại sứ quán Việt Nam tổ chức. Hàng trăm người đến dự, trong đó có đại diện các cơ quan chính phủ, đoàn thể của Nhật, nhiều người Việt có đóng góp tích cực cho hoạt động của Đại sứ quán như các ông Nguyễn An Trung, Huỳnh Sỹ Chánh, Trần Văn Thọ, đông đảo sinh viên và cả chị em lấy chồng Nhật cũng đến dự... Về phía ngoại giao đoàn có đại diện các nước như Lào, Campuchia, Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là các bạn Cuba đến nhảy múa, đánh đàn dương cầm... rất vui.
Hai tiếng Việt Nam cũng xuất hiện khá dày đặc trên báo chí Nhật Bản bấy giờ. Ông Chủ nhớ rằng có nhiều nhà báo Nhật đến đặt câu hỏi là "Vì sao Việt Nam có thể thắng đế quốc Mỹ?". Sau đó, cứ đến Quốc khánh là có bài phát biểu của Đại sứ Việt Nam trên báo Kinh tế Nhật Bản. Mối quan tâm của Nhật Bản đối với Việt Nam ngày càng tăng lên, đặc biệt sau chuyến thăm Nhật Bản của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh vào tháng 12/1978 - chuyến thăm cấp cao đầu tiên kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 21/9/1973)...
Quan hệ Việt Nam và Nhật Bản tất nhiên là không phải bắt đầu từ việc Việt Nam tiếp quản Đại sứ quán, mà có thể tính từ khi Nhật Bản và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 21/9/1973 hay xa hơn nữa là từ cuối thế kỷ XVI, khi các nhà buôn Nhật đến Việt Nam buôn bán... Bốn nhiệm kỳ công tác tại xứ sở Phù tang cho phép ông Chủ chứng kiến những dấu ấn mạnh mẽ, những bước đi đột phá trong quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản song thời điểm tiếp quản Đại sứ quán vẫn là hồi ức không bao giờ phai mờ...
Đó là khởi nguồn đáng nhớ trong sự nghiệp ngoại giao hơn 40 năm của ông, nơi ông có nhiều kỷ niệm ấm áp với những đồng nghiệp lớn mà giờ đây, có người mãi mãi không trở lại như các ông Nguyễn Giáp, ông Lê Minh Hương, ông Nguyễn Hữu Sự...
Theo Hồng Phúc
Thế giới và Việt Nam