Người đàn ông có hơn 200 người thân bị Pol Pot sát hại
Chú Tư Chỉnh ở An Giang có hơn 200 người họ hàng bị quân Pol Pot giết hại, nhưng cái chết của bác gái với tư thế quỳ hằn sâu trong ký ức.
Ngày 18/4/1978, quân Khmer Đỏ tràn vào xã Ba Chúc ( tỉnh An Giang). Trong 11 ngày đêm, chúng thẳng tay tàn sát dã man hơn 3.000 người, dìm Ba Chúc trong biển máu với vô vàn hình thức giết người man rợ như thời trung cổ.
Tác giả Võ Diệu Thanh tìm gặp những nhân chứng vụ thảm sát, ghi lại trong cuốn Về từ hành tinh ký ức. Được sự đồng ý của Tao Đàn (đơn vị nắm bản quyền sách), Zing.vn trích đăng câu chuyện của chú Tư Long (xã Lê Trì, Huyện Tri Tôn, Tỉnh An Giang) – nạn nhân của cuộc diệt chủng.
Cô lập Ba Chúc xong, tụi nó tiến hành tàn sát
Nội ngoại tôi có hai trăm người đã bị giết.
Không phải tự nhiên chúng tôi chạy vô hang núi. Không phải tự nhiên chúng tôi chạy vô chùa Phi Lai. Nó đặt pháo bên kia giồng Tà Muôn. Giồng đất đó cao lắm. Là bên này kênh Vĩnh Tế. Là đất mình. Mỗi ngày pháo hai, ba lần. Khi thì sáng khi thì chiều.
Không có nơi nào để tránh pháo trừ hang núi và chùa. Cứ vào đó trốn cảm thấy an tâm hơn. Hễ im tiếng pháo là chạy về nhà nấu cơm. Ăn xong lại chạy tiếp vô hang núi trốn pháo. Có những hang cạn, có những hang sâu. Có những hang do con người khoét cho sâu thêm đặng ở đông hơn. Mỗi hang núi trốn hàng trăm người.
Hết tháng này tới tháng khác. Những nhà nào dư dả có lúa gạo thì gánh gạo tản cư. Ăn hết lại phải về nhà xay gạo rồi tản cư tiếp. Những nhà nghèo thì phải lên rẫy trồng tỉa. Những năm đó đói kém, chúng tôi không biết chạy đi đâu trừ việc bám trụ xóm làng quen thuộc của mình.
Tại mình lớn lên ở đây. Chiến tranh đâu phải là mới thấy. Cô biết đó. Hồi đó ở đây là căn cứ. Đạn pháo nào mà không từng chứng kiến. Hồi chiến tranh, nghe đạn pháo dân cũng chạy vô chùa. Mấy ổng hai bên thấy vậy bắn né chùa ra. Chùa như là nơi quy ước để dành cho những người dân trốn đạn pháo.
Sách Về từ hành tinh ký ức. Ảnh: TĐ.
Ai mà ngờ tụi nó pháo vô chùa. Chết mấy chục người.
Ừ thì trốn trong hang núi leo nheo như vậy đâu có sung sướng gì. Nhưng đó là chỗ có thể sống được qua những đợt pháo. Riết rồi quen. Xe bộ đội lên chở đi di tản, họ nói nên vô cánh núi Dài, vô Tri Tôn, chỗ đó có căn cứ cũ, hiểm trở, du kích dễ phòng cũng dễ công. Ba Chúc gần căn cứ tụi nó quá mà địa hình lại trống trải rất thất thế trong phòng thủ. Nhưng lúc đó không mấy người tin là sẽ có chiến sự nên cũng lười đi, có một số đi rồi lại quay trở về. Cứ ăn cơm xong lại vô chùa vô núi trốn pháo. Ai cũng như ai hết chớ có phải chỉ mình mình đâu. Thành ra thấy cũng thường.
Cho tới một đêm tụi nó tràn sâu vô cô lập Ba Chúc. Cánh trên nó đưa quân đóng chặn ngang đồng Lạc Quới, chặn lối về Chi Lăng, Tịnh Biên. Cánh dưới tụi nó chiếm cánh đồng Lương Phi bọc qua dọc nửa núi Dài, chặn lối thoát về Tri Tôn. Khi cô lập xong Ba Chúc hoàn toàn, tụi nó mới yên tâm tiến hành tàn sát.
Video đang HOT
Những cánh lính đi trước không giết người mà chỉ đốt nhà. Ba Chúc ít cây cỏ, lại nhằm mùa hạn nên đồng ruộng làng xóm trống trải. Nhà bị đốt hết, cả thị trấn trở thành một cánh đồng lớn, có thể nhìn thông thống từ đầu xã tới cuối xã, chỉ còn chùa Phi Lai và núi Tượng đứng trơ trọi.
Nhà cháy ầm ầm, khói cuộn mù mịt không thấy lối đi. Mấy đứa nhỏ bốn, năm tuổi chịu không nổi khói khóc um. Khói lửa kinh hoàng lắm cô ơi.
Chỗ khác thì tôi không rành. Chỗ hang núi tôi đang trốn thì chỉ có một thằng ôm máy bộ đàm C25, hai thằng ôm súng AK. Nó cầm súng chỉ vô miệng hang rồi châm tiếng Khmer gì đó. Bà già Thạch Út đã từng vô sóc buôn bán nên bả châm tiếng Khmer với nó. Bà nói mấy chú này mời mình xuống lộ, xuống đó người ta giải quyết.
Một thằng chĩa súng một thằng trói từng người. Rồi nó lùa đi. Trên đường đi, nội tôi, bà ba Vàng già quá đi không nổi, nó bắn chết tại chỗ. Tôi thấy không được rồi, đã có ý định trốn từ chỗ đó.
Lúc xuống một chút nữa nó bắn bác Hai tôi, ba chị Tư Chỉnh, bác Hai tôi bị bắn chúi đầu vô bụi tầm vông chết. Lúc đó tôi mới tức tốc bỏ chạy. Tôi chạy miết tới đường quằng chỗ cây me thì gặp ba tôi cùng bác gái và hai em tôi ở đó. Ba tôi nói ráng trốn đi con, tụi này nó ác lắm.
Chúng tôi cứ chạy băng qua đường rừng mà không biết đâu là lối mòn, đâu là đường chưa mở. Chừng tới một chỗ le mọc nhiều, mọi người mới chui vô bụi le trốn. Tôi lấy lá le rải lên che cho mọi người. Thằng Hưởng em tôi, tôi ém nhét nó vô hang lấy lá le phủ lên đầu nó. Tôi cũng chui vào bụi le trốn. Lúc từ trong bụi le nhìn ra tôi mới hoảng hốt. Chỗ tụi tôi trốn sát bên một lối mòn. Tụi nó dắt người đi xuống, không biết bao nhiêu mà kể cô ơi. Đông lắm. Hàng mấy trăm người. Đi hoài không thấy hết. Chưa bao giờ đi với nhau đông như vậy. Không ai trong số họ giống như đang đi vô chỗ chết cả. Có lẽ cả đoàn đều không ngờ rằng chỉ một chút nữa, tất cả đều gặp nhau phía bên kia thế giới.
Những ngày chạy trốn, ngồi trên một tảng đá cao chỗ núi Tượng, nhìn ra đồng tôi thấy tụi Pol Pot lùa người ra. Họ mặc quần áo đủ màu. Có người còn che dù. Rồi tụi nó ria súng bắn. Mấy cái đìa thì xác người chất vun. Quần áo họ đủ màu nằm chất lên nhau la liệt. Đống đống như vậy, nhiều, nhiều lắm. Thấy rõ hết cô ơi. Vì tháng Ba, đồng ruộng đất mới cày nên trống không. Chẳng có cây cỏ gì. Chỉ tụi nó đi lại ăn uống, giết người và xác người. Dọc theo núi Tượng cũng có xác người nhưng ít hơn không chất đống như những chỗ đồng trống.
Chúng tôi trốn quanh một hòn đá lớn. Những người khỏe leo lên cao, được ngách đá che chở. Bác tôi phụ nữ yếu ớt không leo kịp được nên nấp dưới chân tảng đá.
Đêm 16 mưa lớn lắm. Cũng đêm đó chúng tôi có gặp một cặp vợ chồng với một đứa con còn đỏ hỏn. Tôi nhớ là tôi lượm được tấm cao su che mưa cho người phụ nữ và đứa nhỏ. Họ trốn trong hang gần chỗ tôi. Sáng đó tụi nó lên phát hiện ra họ. Tụi nó ngoắc ra dắt họ đi. Đi được một lúc bỗng tụi nó quay lại. Lần trở lại này nó phát hiện ra bác gái tôi. Bác tôi quỳ xuống lạy nó.
Cái xác quỳ
Tôi không hiểu sao dòng họ nội ngoại từ má tới anh chị em tôi chết tới hai trăm người mà tôi chỉ nhớ mỗi cái chết của bác gái, một người không ruột thịt. Tôi nhớ như in dù sự việc diễn ra cách đây bốn mươi năm.
Nó chĩa súng vào bác. Bác lạy nó. Mấy cậu ơi tha cho tôi, tôi là người dân chớ không phải giặc. Bác nói chưa hết câu, khi bác vừa bước chân lên bệ đá nó bắn bác một phát súng, viên đạn xuyên qua đầu. Bác chúi đầu xuống bệ đá rồi chết trong tư thế đó, người quỳ, đầu chúi xuống bệ đá. Bác chết ngay dưới chân tôi. Tôi không hiểu sao tụi nó không nán lại lùng sục. Chỉ cần nó bước tới bước lui vài bước chân đã phát hiện tôi, ba tôi, chị tôi đang trốn quanh khe đá. Dường như bận bịu với việc giết bác gái tôi đã làm cho tụi nó lơ là việc lùng sục. Tụi nó bỏ đi.
Cái chết của bác gái tôi làm mọi người còn sống gần như không dám nhúc nhích. Ai cũng im lìm chịu trận một chỗ. Chúng còn đáo tới đáo lui chỗ chúng tôi vài lần. Nhưng nhìn thấy xác bác tôi nằm chỏng khu, chúng nghĩ là không còn ai nên lại bỏ đi. Tôi đứng ở gần đó, lấy con mắt nhìn bác gái tôi chết quỳ mà không dám động tay vào sửa.
Cái nắng tháng Ba hèn hạ gì? Cô biết đó, nhìn da tôi đi, da người sống nhưng dưới cái nắng của miền núi Ba Chúc nó cháy đen vầy nè. Nắng tháng Ba, cái nắng cháy sau những ngày hạn dài, cây cỏ tiêu điều. Người trốn trong nhà còn héo nữa nói gì là phơi giữa nắng. Cô đem nước xối vô đá vô cát nó sôi lên. Người sống nằm trên đá dám chín thịt chín da.
Mùa đó, cây lớn cây nhỏ đều rụng sạch lá. Chỉ còn lại thân cây và những nhánh già. Không một lá non nào nhú ra khỏi thân. Nếu người lạ nhìn tưởng đâu cả cánh rừng trên núi đã chết khô. Núi Tượng nhìn đâu cũng thấy toàn đá. Đá nằm dọc, đá nằm ngang, đá ngả nghiêng dưới nắng. Nắng như đổ lửa lên đá.
Xác bác tôi phơi quỳ trong cái nắng tháng Ba đổ lửa như vậy. Tôi nhìn vào cái dáng quỳ bất động của bác thấy như bác đang rất mỏi. Tôi cứ muốn với tay sửa lại nhưng rồi lại thôi. Cho tới ba ngày sau, chịu đựng hết nổi, khi ít nghe tiếng lùng sục của chúng, tôi liều gan lật bác lại sửa xác bác cho ngay ngắn. Nhưng cô hình dung thử coi, người chết ba ngày, tay chân bác tôi đã đơ cứng với dáng quỳ chổng khu trên đất.
Tôi kéo mấy lần nhưng tay chân vẫn đơ cứng, nắm tới đâu da bị tuột tới đó… Ba tôi nói: “Thôi con, đừng sửa nữa, tụi nó trở lại thấy mất dấu lại tìm kiếm kỹ là chết hết”. Tôi buộc phải để bác trở về vị trí quỳ mọp như lúc bác bị giết.
Cánh đồng đầy nạn nhân của quân Khmer Đỏ.
Chúng tôi vẫn ở bên khe đá. Đói thì moi củ ráng bay mọc trong khe đá để ăn. Hoặc có khi hái lá xây rừng để ăn. Lá đó vị chát chát chua chua. Ăn xong mười ngày lúc xuống núi, tôi đi không nổi. Chị tôi khát quá. Em tôi đái bao nhiêu chị tôi uống hết bấy nhiêu. Uống nước đái riết thở cũng chảy máu cam.
Không chịu được cảnh đó, tôi lần theo rừng le trụi lá tìm nước. Tôi không dám đi mà chỉ dám lết trên đá lần dò tìm chỗ có nước. Bọn Pol Pot có thể xuất hiện bất cứ lối mòn nào. Lu hũ chum vại có thể chứa nước được đều đã bị đập. Nước hiếm hoi như mạng sống của chúng tôi lúc này.
Nhưng chúng tôi phải tìm nước. Không có nước, cái chết vì khát nó đáng sợ không thua gì cái chết bị giết. Tụi nó đập hết chum vại hay bất cứ thứ gì có thể trữ nước mưa. Ngay cả một mảnh lu bể chúng cũng đập. Chúng hy vọng chúng tôi không còn chỗ để sống sót.
Trích sách “Về từ hành tinh ký ức”
Theo Zing.vn
An Giang: Thương mùi cốm dẹp Bảy Núi, bỏ chày, cối đi Bình Dương hết rồi
Là món ăn truyền thống của đồng bào Khmer, cốm dẹp đã trở thành nỗi nhớ của những ai sinh ra và lớn lên ở vùng Bảy Núi. Bởi thế, dù nghề làm cốm dẹp không còn phổ biến nhưng những ai gắn bó cùng nó cứ son sắt một lòng, mặc cho thời gian phủ bụi lên những chiếc chày nơi góc bếp.
Đưa mắt nhìn về bếp lửa đang cháy bập bùng dưới chiếc nồi đất vừa rang nóng, ông Chau Sóc Sane không giấu được sự ưu tư bởi lẽ cái nghề làm cốm dẹp truyền thống ở xã Ô Lâm (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) đã không còn thịnh hành như mấy chục năm về trước. Năm nay, Chau Sóc Sane đã ngoài 60 tuổi nhưng vẫn còn thừa sức cầm chày nện "huỳnh huỵch" xuống chiếc cối giữa sân để giã cốm mỗi khi cả sóc, phum đón mừng Tết Ok-om-bok (Tết cúng trăng)...
Dùng chày giã cốm
Ông Chau Sóc Sane chia sẻ: "Trước kia, cả khu này có tới mấy chục nhà làm cốm dẹp để bán quanh năm, chứ không chỉ dịp Ok-om-bok, bởi không chỉ người Khmer mà người Kinh cũng thích món ăn này. Do nhu cầu xã hội ít đi nên còn 17 hộ theo nghề cách đây 3 năm. Hiện nay, người ta bỏ chày, bỏ cối đi Bình Dương, Đồng Nai hết rồi nên chỉ còn vài ba nhà làm cốm dẹp".
Trong đôi mắt lão nông Khmer này hiện lên ký ức về thời kỳ "hoàng kim" của hạt cốm dẹp, khi mà tiếng chày, tiếng cối cứ vang vọng khắp phum, sóc để đánh thức ông trăng tròn vào đêm rằm tháng 10 (âm lịch).
Hiện nay, Chau Sóc Sane đang cùng cô con gái Neáng Sóc Vy "giữ lửa" cho nghề làm cốm dẹp, trong khi 8 đứa con khác của ông buộc phải đến các tỉnh miền Đông Nam Bộ tìm kế mưu sinh.
Để làm cốm dẹp, người ta chọn những hạt nếp mây mẩy, giống nếp chon-hô trứ danh vùng Bảy Núi hiện chỉ còn trồng rất ít ở xã Núi Tô, Cô Tô (huyện Tri Tôn), để cho ra những mẻ cốm thơm dẻo, thắm đẫm mùi vị quê hương.
Trước tiên, nếp được cho vào nồi đất để rang chín. Khi nếp nổ lách tách trong nồi, người ta đổ vào cối rồi dùng chày giã cho dẹp hẳn. Khi cốm dẹp, các mẹ, các chị lại phải sàng sẩy cho sạch vỏ, sạch bụi. Đó là công đoạn sơ chế. Muốn ăn cốm, các bà nội trợ sẽ phải trộn thêm dừa, đường và một ít nước dừa tươi.
Trong đêm trăng tròn tháng mười, trên bàn thờ tổ tiên của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer luôn có dĩa cốm dẹp với chuối tươi ăn kèm để cầu mong mùa màng tươi tốt và tưởng nhớ công ơn người đi trước...
Nếp chon-hô được rang trong nồi đất
Chị Neáng Sa Rết (hộ làm cốm dẹp khác tại xã Ô Lâm) thật tình: "Mỗi năm, tui chỉ làm cốm được 4 tháng, tức là từ tháng 10 đến hết tháng giêng nên nguồn thu không ổn định, buộc mình phải kiếm thêm nghề khác mưu sinh. Vì đây là nghề của cha ông để lại nên tui ráng giữ. Nếu mình siêng năng thì cốm dẹp mang đến nguồn thu cho gia đình...'.
Chị Neáng Sa Rết chia sẻ: "Trước kia có nhiều người ở Nhà Bàng (huyện Tịnh Biên), Châu Đốc vô đặt cốm về bán, bây giờ họ đặt ít quá nên nguồn thu cũng giảm. Nhờ mấy năm gần đây được Hội Nông dân dẫn khách du lịch tới tham quan, mua cốm dẹp nên mình cũng có thêm thu nhập".
Với nhiều người, cốm dẹp đã rất thân quen và gắn chặt vào ký ức thời thơ ấu. Quên sao được hình ảnh những mẹ, những chị kĩu kịt 2 đầu quang gánh với nào là xôi nếp, xôi bắp, cốm dẹp rồi cất tiếng rao "lanh lảnh" trên những nẻo đường ngập nắng.
Ngày còn "ê a" đánh vần, ai chẳng được một lần nếm thử món cốm dẹp dân dã, "đặc sệt" chất quê này. Với đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, cốm dẹp vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng, bởi nó có thể "để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà" nhưng cũng là món bánh để dâng cúng tổ tiên, trời đất, cầu mong mưa thuận gió hòa.
Theo Thanh Tiến (TTMT)
Lạng Sơn: Chuyện ly kỳ về người đàn bà "tài côn, mũ tướng, áo thầy" Dù đã 62 tuổi nhưng bà Lê Thị Văn (thôn Xa Đán, xã Vạn Linh, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn) vẫn ngày ngày cần mẫn, đôi tay thoăn thoắt từng đường kim mũi chỉ để làm ra những sản phẩm độc đáo phục vụ cho các hoạt động tín ngưỡng. Xung quanh việc làm những đồ lễ này của bà Văn có nhiều...