Người đàn bà vượt qua định kiến, trở về từ ‘địa ngục trần gian’
Cuộc đời chị có thể tổng kết lại trong một câu ngắn gọn: Lang thang, bị bán sang Trung Quốc, sống phận “chó ngựa” và trốn được về quê hương.
Chị Đoàn Thị Vân, sinh năm 1979 tại Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên, Nghệ An sau mấy chục năm mất tích, vừa qua, bỗng tìm đường trở về quê hương.
Không ai biết chị đã đi đâu, làm gì, sống hay c.hết trong quãng thời gian đằng đẵng ấy. Cuộc đời chị có thể tổng kết lại trong một câu ngắn gọn: Lang thang, bị bán sang Trung Quốc, sống phận “chó ngựa” và trốn được về quê hương.
Thế nhưng, chẳng ai có thể tưởng tượng được, người đàn bà chưa già ấy đã trải qua những địa ngục trần gian với những đau đớn tột cùng và không ít lần chị đã toan tìm đến cái c.hết. Vượt qua những ngại ngùng, định kiếnxã hội, chị Vân đã kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời bi kịch của mình!
Giấc ngủ dài từ viên thuốc màu trắng
“Con gái ông Nhu đấy phải không, sao lại ra nông nỗi này?”, tiếng gọi giật giọng của người phụ nữ làm tôi giật mình quay lại. Người đàn bà vừa cất tiếng gọi tôi trông thấp đậm, chừng 40 t.uổi, cổ đeo dây chuyền vàng to sụ, ăn mặc sang trọng mỉm cười nhìn tôi từ đầu đến chân. Bất giác, tôi co người lại giấu đi những mảnh vá víu trên áo quần đã lâu không được thay giặt sau nhiều ngày lang thang kiếm ăn ngoài chợ. Đận đấy tôi nhớ là khoảng tháng 9/1996.
Không kịp nói lời cảm ơn, tôi nhai ngấu nghiến chiếc bánh mì nóng hổi mà người đàn bà ấy đưa cho. Bà ta ghé sát vào tai tôi, tiếng nói nhẹ như gió: “Cô là người quen của bố cháu. Nhìn cháu thế này cô thương lắm, thôi để ngày mai cô đưa ra Hà Nội, phụ việc mà k.iếm t.iền. Lang thang thế này, đời biết đi về đâu”.
Từ ngày bố mất, mẹ đem anh trai đi biệt tích, tôi như con thuyền không bến, luôn thèm khát tình thương. Thế nên, dù còn hơi nghi ngờ về lời hứa hẹn của người phụ nữ xa lạ ấy nhưng lòng tôi vẫn trào dâng xúc động. Thấy tôi im lặng, bà ta sắp xếp luôn: “Ngày mai đúng 7 giờ ra bến xe Quỳ Hợp, Nghệ An, cô sẽ đi cùng cháu ra ngoài Hà Nội”. Năm ấy, tôi tròn 17 t.uổi, cái t.uổi đương thì con gái mơn mởn lúa non, nhưng tôi thì vẫn chỉ gầy nhẳng như cành củi khô vì những ngày lang thang, cơ cực.
Sáng hôm sau, tôi mặc bộ quần áo lành lặn nhất đi bộ ra bến xe Quỳ Hợp mà không hề đem theo bất cứ thứ gì. Chúng tôi lên một chiếc xe ca đã chật ních người. Tôi ngồi lọt thỏm ở hàng ghế cuối và miên man nghĩ về những tháng ngày cơ cực của mình. Tim tôi đ.ập rộn ràng khi nghĩ đến những công việc mới, một tương lai tươi sáng đang chờ phía trước.
Đến Thanh Hóa, người phụ xe lớn tiếng giục: “Hành khách xuống xe uống nước, đi vệ sinh”. Khi chị chủ quán bê cốc nước lọc đến, ngườn đàn bà lấy từ trong túi xách ra một viên thuốc màu trắng, bỏ vào cốc nước và đẩy về phía tôi. Bà ta cười bảo: “Không phải thuốc độc đâu mà sợ, đây là thuốc chống say tàu xe, từ đây ra Hà Nội còn xa lắm, không uống thứ này không chịu nổi đâu”.
Tôi, một con bé chưa một lần đi ra khỏi huyện, nào có biết Hà Nội xa mãi tận đâu. Thấy cử chỉ ân cần của người đàn bà ấy, tôi nhắm mắt uống sạch. Cơn buồn ngủ ập đến sau đó khiến tôi không thể cưỡng lại được. Đầu tôi cứ mụ mị dần đi, bên tai chỉ còn nghe tiếng gió ù ù.
Tôi giật mình tỉnh lại, người mệt mỏi rã rời, toàn thân đau nhức ê ẩm. Tôi thấy mình đang nằm trong một căn nhà mái gianh lụp xụp, hôi hám. Tôi ghé mắt nhìn qua cửa sổ rồi giật mình hoảng hốt vì bốn bề là ngút ngát rừng xanh, mây núi. “Người ta đưa mình đi đâu thế này?”, tôi hoang mang thầm nghĩ. Thế nhưng, tôi thở phào khi một người đàn ông cao gầy, mặt sần sùi bước vào cất giọng sền sệt: “Đây là Hà Nội rồi. Sáng mai đến công ty, họ nhận người để bắt đầu làm việc”.
4 giờ sáng khi trời còn chưa tỏ, vợ chồng người đàn ông lạ gọi tôi dậy để chuẩn bị lên đường. Ông ta vằn mắt dặn đi dặn lại: “Nếu có ai hỏi gì, mày phải nói rằng sang đây chơi, không thì họ bắt lại ngay”. Tôi hoang mang tự hỏi: “Sang đây là sang đâu? Tại sao lại sợ bị bắt?”. Thế nhưng, nghe những lời ngon ngọt về công việc trước mắt, tôi đành dấn bước.
Trò “đãi vợ” của người chồng bệnh hoạn
Chúng tôi đi khoảng 3km đường rừng thì đến một con sông đã có người lái đò đợi sẵn. Ông ta nói một thứ tiếng gì đó mà tôi không thể hiểu được. Bất giác tôi giật mình: “Thôi c.hết tôi rồi, có lẽ tôi không còn ở Việt Nam nữa”. Tôi cuống cuồng hỏi về người đàn bà đã đi cùng mình từ Nghệ An. Người đàn ông nói gằn từng tiếng: “Đây là đất Trung Quốc rồi, bà ta đã bán mày với giá 17 triệu. Nếu mày có t.iền thì trả tao rồi về, không có thì đi làm trả nợ, đừng gào khóc nữa, tốn công”.
Video đang HOT
Họ nhốt tôi vào một căn buồng tối, đến bữa có một người đưa cơm đến. Ánh sáng từ khe cửa sổ xuyên vào những tia sáng yếu ớt, mệt mỏi. Tôi cắn môi khóc thầm, hoang mang nghĩ đến tháng ngày trước mặt. “Hay trốn!”, một ý nghĩ lóe lên. Thế nhưng, giữa rừng sâu núi thẳm, không có một xu dính túi có trốn thì cũng c.hết đói giữa đường.
Căn nhà mà chị Vân đang sống tạm khi mới trở về
Ngay đêm đó, tôi nhục nhã trở thành đàn bà bởi chính gã đàn ông lạ mặt, sặc mùi rượu. Một đứa con gái quê mùa như tôi chưa một lần biết nắm tay con trai thì nay phải vùi mình trong tủi nhục nơi đất khách. Tôi không biết người ta mua sự trinh trắng của tôi bao nhiêu t.iền nhưng 10 ngày sau đó, đêm nào tôi cũng bị h.ãm h.iếp trong tột cùng đau đớn bởi những gã đàn ông thô bạo. Có những đêm quá tủi nhục tôi định tìm đến cái c.hết. Nhưng sự căm hận mụ đàn bà đồng hương đã ngăn tôi lại. Tôi nung nấu trong mình một ý nghĩ rằng: Tôi phải sống để trả thù.
Thời gian sau đó, tôi bị ép bán về làm vợ một người đàn ông Trung Quốc tên là A Xiển. Anh ta người thấp đậm, không biết tiếng Việt và hơn tôi tới 23 t.uổi. Tôi theo A Xiển về một ngôi làng miền núi mà mãi sau này tôi mới biết là ở Phúc Kiến, Quảng Tây, Trung Quốc để sinh sống. Tôi ngơ ngác, cô đơn vì không biết tiếng nên không thể nói chuyện được với ai. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê khắc khoải trong tôi mỗi khi trời ngả bóng về chiều. Ngày ngày, từ sáng sớm đến tối mịt, tôi phải lên nương hái lá dâu về nuôi tằm. Tối tối tôi lại khóc thét đau đớn khi A Xiển uống rượu say lao vào tôi như một con thú.
Một sáng, tôi đang trên nương bỗng nghe thấy tiếng người gọi: “Chị gì ơi!”. Tôi ngỡ ngàng quay ngoắt lại vì đã lâu tôi không nghe thấy tiếng Việt. Dù không quen biết, tôi cũng ào đến nắm c.hặt t.ay chị ấy. Chị tên Liên, quê ở Hải Dương, Việt Nam bị lừa bán sang đây làm vợ đã lâu và giờ đã có hai con trai. Qua lời kể của Liên tôi biết cuộc sống của chị hiện tại cũng chẳng hơn gì tôi.
Liên hướng mắt về dãy núi xa xa nói: “Chị cũng vì hai con mà phải ở lại, chứ nếu không thì trốn lâu rồi. Nếu em có ý định trốn thoát về Việt Nam thì chị khuyên em không nên có con với người chồng Trung Quốc. Trốn một mình thì sẽ mất con mà đem theo con thì khó thoát. Để ngày mai, chị sẽ mang ít thuốc tránh thai cho em dùng”.
Tôi vẫn âm thầm dùng thuốc tránh thai mà chị Liên đưa cho nên sống với chồng hơn một năm tôi vẫn không có bầu. Vì thế, A Xiển đối xử với tôi ngày càng tệ bạc. Anh ta uống rượu say về, vô cớ h.ành h.ạ tôi thừa sống thiếu c.hết. Nhưng đau đớn và nhục nhã nhất là những lần anh ta kéo bạn về nhà uống say rồi đãi bạn ngủ với vợ mình. Mặc cho bạn nhậu giở trò đ.ồi b.ại với vợ, chồng tôi vẫn ngồi đó thản nhiên uống rượu và lấy những gì đang diễn ra trước mắt mình làm thú tiêu khiển để nhâm nhi. Chẳng phải chỉ một lần ấy, thỉnh thoảng tôi lại bị lôi ra làm thú tiêu khiển cho đám bạn d.âm ô của chồng.
Người chị đồng hương và chiêu lừa ngoạn mục
Một lần tôi xuống chợ Hằng Hều (Phúc Kiến, Trung Quốc) và quen với chị Ngọc, khoảng 40 t.uổi là người Việt Nam sang sinh sống. Chị Ngọc không bị bán như chúng tôi mà là dân buôn tự do lấy chồng người Trung Quốc. Mấy lần gặp nhau, biết được ý định của tôi chị Ngọc bảo: “Em trốn xuống nhà chị ở một vài ngày, lúc nào có xe về chị gửi theo”. Tim tôi đ.ập thình thịch, tất cả hy vọng trốn thoát đều dồn vào người đàn bà có đôi mắt sắc như dao cau này.
Một đêm, tôi lặng lẽ trốn khỏi ngôi nhà đã giam chân mình suốt 6 năm trời. Tôi chạy bộ 50km trong 2 ngày, tìm xuống nhà chị Ngọc. Chị đối xử với tôi rất tốt. Tôi hồi hộp chờ đợi, một ngày, hai ngày, hai tuần, vẫn chưa thấy chị Ngọc nhờ được xe. Có lần, đi qua cửa phòng vợ chồng chị Ngọc, tôi khựng lại vì nghe vợ chồng chị có nhắc đến tên Vân. Tiếng chị Ngọc thì thào với chồng: “Có khách ưng con Vân rồi. Đợi mai mốt họ xuống xem mặt nữa là xong”. Tôi bàng hoàng ngồi thụp xuống đất rồi ôm mặt khóc. Đời tôi thật khốn nạn! Lại một lần nữa tôi rơi vào tay bọn buôn người.
Không còn cách nào khác là tự mình trốn thoát. Thế nhưng tôi không có t.iền, không biết đường, không biết tiếng thì trốn sao được. Trong lúc đó, tôi nghĩ đến anh Tư là anh trai của Ngọc, hiện đang sang thăm em gái nên ở nhà chị ta chơi. Chỉ sáng ngày mai thôi là đã có người đến mua, lòng tôi rối như tơ vò. Nếu nói tình cảnh của mình và nhờ sự giúp đỡ của anh Tư để trốn thoát cũng rất nguy hiểm vì biết đâu anh Tư cũng cùng một phe với em gái mình. Mà nếu không nói gì thì đời tôi coi như không còn hy vọng. Đằng nào cũng c.hết, đêm đó tôi liều mình nói với Tư.
Anh Tư cầm tay tôi và hứa sẽ giúp tôi trốn thoát. Theo sắp xếp của Tư, ngay đêm đó tôi trốn khỏi nhà Ngọc rồi vạ vật ở một khu chợ ở cách đó khá xa để đợi Tư. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi hai ngày sau anh đến tìm tôi. Chúng tôi băng rừng nhiều ngày để ra đường cái rồi từ đó bắt xe ca. Khi đi qua một khúc sông, nghe thấy tiếng người dân chài hò một điệu hò sông nước, tôi ôm mặt khóc nức nở. Vậy là dưới chân tôi đã là đất Việt Nam.
Tư đưa tôi về lại quê cũ. Căn nhà cũ của bố tôi ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh đã sập vì mưa bão không được sửa sang. Tôi dò hỏi khắp huyện Quỳ Hợp về tung tích người đàn bà năm xưa đã lừa bán tôi. Nhưng tung tích của bà ta vẫn bặt vô âm tín.
Tôi đành theo Tư ra Móng Cái, Quảng Ninh thuê một căn nhà nhỏ để sinh sống. Tư buôn bán nên đi suốt, hàng tháng chỉ về nhà một lần. Tư đối xử với tôi rất tốt. Thế nhưng, một lần có người đàn bà ở Hải Dương đến tìm tôi giới thiệu là vợ của anh. Bà ta bảo: “Anh Tư đã có hai con trai, cuộc sống gia đình đang cần bàn tay người đàn ông”.
“Tôi muốn làm lại cuộc đời bằng chính đôi tay mình”
Tôi lặng lẽ trả nhà rồi gói ghém đồ đạc trở về Hà Tĩnh. Tôi hiểu rằng Tư không thuộc về tôi, tôi phải đứng trên chính đôi chân của mình để bắt đầu một cuộc sống mới. Lúc này, tôi đã mang giọt m.áu của anh, nhưng tôi không muốn đứa con này sẽ phá vỡ hạnh phúc gia đình anh ấy. Dù sao, Tư cũng là người đàn ông tốt nhất mà tôi đã từng gặp.
Tôi đã sinh con được 2 tháng nhờ sự giúp đỡ của vài người bạn mới quen từ khi tôi về TP Vinh. Biết được hoàn cảnh khó khăn của tôi, thỉnh thoảng họ lại giúp tôi ít t.iền trong khi tôi chưa đi làm. Việc quan trọng với tôi bây giờ là phải làm lại những giấy tờ đã mất để con tôi có một cái tên.
Tôi cần phải sống một cuộc sống mới sau những năm tháng cùng cực nơi đất khách quê người. Những vết thương từ trong quá khứ rồi cũng đến ngày lành sẹo. Tình yêu thương giữa con người sẽ giúp tôi vững bước trong cuộc đời này.
(Ghi theo lời kể của chị Đoàn Thị Vân)
Theo xahoi
Xót xa những "hòn vọng thê" ở xứ Nghệ
Nghe lời dụ dỗ của những kẻ buôn người, không ít phụ nữ ở các bản làng vùng cao đã từ bỏ nương rẫy, dứt bỏ mái ấm gia đình để chạy theo tiếng gọi của đồng t.iền ở "miền đất hứa". Gia đình bỗng chốc tan nát, con cái nheo nhóc, bơ vơ, người chồng bỗng chốc trở thành những "hòn vọng thê" bất đắc dĩ...
Hòn "vọng thê" t.uổi... 50
Trên hành trình rong ruổi qua các bản làng vùng cao, đêm đó chúng tôi nghỉ chân tại nhà một người quen ở bản Xiềng Líp, xã Yên Hòa (Tương Dương, Nghệ An). Đêm mùa thu ở vùng cao thật dễ chịu, chỉ cần đặt lưng đã chìm ngay vào giấc ngủ. Chợt giữa chừng có tiếng la thảm thiết: "Trời ơi! Sao tôi khổ thế này!", rồi cả tiếng khóc, kèm theo là tiếng xoong nồi, đồ đạc loảng xoảng phát ra từ nhà bên cạnh. Chủ nhà trấn an: "Không có việc chi đâu, cậu cứ ngủ tiếp đi. Anh hàng xóm vợ con bỏ đi hết, ở nhà một mình, buồn chán nên uống rượu rồi kêu la, phá phách thế thôi. Hôm nào cũng như thế cả, hàng xóm quen rồi...".
Sáng hôm sau, chúng tôi ngỏ ý nhờ chủ nhà dẫn sang nhà hàng xóm để tìm hiểu, chia sẻ hoàn cảnh thương tâm của người đàn ông cô độc. Ngôi nhà sàn lợp ngói nằm chênh vênh giữa sườn đồi cửa vẫn đóng im ỉm. Chúng tôi phải gõ liên hồi cánh cửa mới được mở ra. Trước mắt chúng tôi là người đàn ông gầy gò, tiều tụy, mắt vẫn còn ngái ngủ. Giữa sàn nhà chiếu chăn vứt bề bộn. Bối rối, ngại ngần khi có khách lạ viếng thăm bất ngờ, người đàn ông phân bua: "Vợ con bỏ đi hết rồi, sống một mình ta không thích ngủ trên giường, phải ngủ dưới sàn để vùi quên đi tất cả".
Ông Lâm Văn Xá hàng ngày ra trước hiên nhà ngồi ngóng vợ
Trong nhà, 2 chiếc giường gỗ, bàn và tủ đều bám đầy bụi bẩn. Dưới chái bếp, xoong chậu và bát đĩa nằm ngổn ngang mỗi nơi mỗi chiếc. Chờ người đàn ông ấy đ.ánh răng rửa mặt xong, chúng tôi hỏi thăm về hoàn cảnh. Ông nói: "Chuyện buồn lắm, bây giờ không kể được. Anh chờ một tý để tôi ra lấy chai rượu về uống, có men rượu may ra mới kể được". Lát sau, ông trở về kèm theo chai rượu và gói lạc luộc. Sau mấy lần cạn chén "chúc sức khỏe", ông kể về gia cảnh của mình, giọng đứt quãng, vẻ mặt sầu não, khóe mắt rưng rưng.
Tên của ông là Lâm Văn Xá (sinh 1963), vợ ông là Kha Thị Tù (sinh năm 1964). Thời trẻ, vợ chồng ông được xem là đôi trai tài gái sắc bởi ông hát hay, làm rẫy giỏi còn vợ ông xinh đẹp nhất vùng, ăn nói khéo léo, lại siêng năng. Họ sống với nhau có đến 3 mặt con (2 trai, 1 gái), con gái út đã lấy chồng về Quỳ Hợp, còn hai người con trai từ khi mẹ bỏ nhà đi đứa thì phạm tội phải vào tù, đứa thì dính vào m.a t.úy hiện đang ở trai cai nghiện. Ông Xá không bao giờ có thể quên được cái ngày giữa năm 2008, khi ông đi thăm họ hàng ở bản Na Pu (xã Yên Na) trở về được bà con hàng xóm báo tin: "Vợ mi đã bỏ đi Trung Quốc". Đất dưới chân như đổ sụp, ông khóc nức nở, quên cả ăn, nhờ người đi tìm khắp nơi nhưng vẫn không thấy bóng dáng của vợ. Từ đó, ông chán nản, phải thường xuyên tìm đến rượu để giải sầu.
Đến nay, đã hơn 4 năm trôi qua, ông vẫn chưa hề có chút tin tức nào của vợ. Mẹ bỏ đi biệt tích, bố ngập chìm trong men rượu, hai đứa con trai của ông không ai dạy dỗ nên sớm bị lôi kéo, sa ngã. Còn một mình trong ngôi nhà trống trải, ông Xá chỉ làm một ít nương rẫy. Thời gian còn lại ông làm bạn với rượu, uống vào là nằm lăn ra ngủ không kể ngày đêm, tỉnh dậy lúc nào là ông lại than vắn thở dài rồi oán trách trời đất đã làm cho số phận ông phải khổ.
"Không ngờ, sắp đến t.uổi 50, tôi lại mất vợ, mất con, gia đình tan nát" - ông Xá ngậm ngùi. Nhìn khuôn mặt nhàu nát và đau khổ của ông, chúng tôi không biết nói gì hơn ngoài lời an ủi: "Bác đừng uống rượu nhiều nữa, phải giữ gìn sức khỏe, mai đây vợ bác sẽ trở về thôi". Như có luồng điện chạy qua, ông Xá giãy nảy: "Không! Nó bạc ác lắm, không xứng đáng nữa, ta không chấp nhận nữa!". Thế nhưng, khi chúng tôi nói: "Nhìn vào ánh mắt bác, tôi biết bác đang hàng ngày mong vợ trở về", nét mặt ông giãn ra rồi nở một nụ cười, cho dù nụ cười ấy không lấy gì làm hân hoan, rạng rỡ.
Khi tình vàng hóa bạc
Cặp vợ chồng Lương Văn Vân (sinh 1980 ở bản Cặp Chạng, Yên Tĩnh, Tương Dương) và Lương Thị Hằng (sinh 1983, Châu Thôn, Quế Phong) gặp và yêu nhau khi cùng đi đãi vàng ở đầu nguồn khe Chà Hạ. Họ kết hôn khi anh tròn t.uổi 20, chị bước sang t.uổi 17. Tình yêu của họ sớm đơm hoa kết trái khi một b.é t.rai kháu khỉnh chào đời và tên gọi được ghép bằng tên của hai vùng quê: Lương Tĩnh Thôn (Yên Tĩnh - quê bố và Châu Thôn - quê mẹ). 2 năm sau, thêm một b.é g.ái xinh đẹp chào đời, được đặt tên là Lương Phi Nhung - tên nữ ca sỹ cả hai vợ chồng mến mộ.
Tình yêu của anh Vân - chị Hằng xuất phát từ bãi vàng nhưng lại kết thúc bằng sự bạc bẽo dù trong thời gian sống chung không bao giờ người ta nghe thấy họ to tiếng với nhau. Cách đây vài tháng, chị Hằng quyết dứt bỏ người chồng đầu gối tay ấp hơn 10 năm và hai đứa con nhỏ để ra đi.
Anh Lương Văn Vân buồn bã kể lại chuyện vợ bỏ nhà ra đi
Hôm ấy, anh ra bãi đãi vàng, còn chị lên rẫy làm cỏ. Đến tối mịt không thấy vợ về, anh tất tả lên rẫy gọi khản tiếng cũng không nghe chị trả lời. Những ngày sau, anh nhờ người thân, hàng xóm đi tìm khắp nơi nhưng người vợ vẫn bặt vô âm tín. Lúc này, mọi người khẳng định chắc chắn chị Hằng đã bỏ nhà đi Trung Quốc. Sự việc được xác minh khi anh gọi điện cho một vài phụ nữ cùng bản đang sinh sống ở Trung Quốc và họ cho biết đã gặp vợ anh ở bên đó.
Giờ đây, Tĩnh Thôn đang học lớp 6, Phi Nhung lên lớp 4, anh Vân phải gửi hai cháu cho ông bà nội để hàng ngày tìm kế mưu sinh. "Nó đi, sướng khổ thế nào không rõ, nhưng không biết có khi nào nó nghĩ tới cảnh côi cút, lấm lem của hai đứa nhỏ hay không?"- bà Lương Thị Đét, mẹ anh Vân than thở. Chúng tôi hỏi anh Vân: "Bây giờ chị Hằng trở về, anh có chấp nhận không?", qua một thoáng suy nghĩ, anh trả lời: "Về lý thì mình không thể chấp nhận. Nhưng các con còn nhỏ, chúng cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ nên mình cũng mong nó sớm trở về".
Không biết ở "miền đất hứa", chị Hằng có lúc nào thương nhớ đến 2 con nhỏ đang thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ?
Những ngày cuối thu, cái lạnh đã bắt đầu "gõ cửa" từng căn nhà ở vùng núi cao biên giới, trong đó có những căn nhà nằm chênh vênh trên dãy Pu Nhạ Thầu của huyện Kỳ Sơn. Tại đây, có căn nhà nhỏ xập xệ càng nhếch nhác, bề bộn khi hơn một năm nay thiếu vắng bàn tay và hơi ấm của người vợ, người mẹ. Chủ nhân ngôi nhà ấy là anh Moong Văn Hồng (bản Na Lượng, xã Hữu Kiệm, Kỳ Sơn), người lâu nay sống trong cảnh "gà trống nuôi con".
Khuôn mặt đen xạm, gầy gò cùng ánh mắt vô hồn, anh Hồng nhớ lại: "Bữa đó, tôi đi rẫy mấy ngày, trở về thì không thấy vợ (chị Lữ Thị Nguyệt - PV) và con gái đầu (Moong Thị Hằng, sinh 1996 - PV) đâu nữa. Lúc đầu tưởng hai mẹ con đi chơi thăm họ hàng nhưng gọi điện hỏi tìm khắp nơi không ai hay biết. Gần tết Nguyên đán vừa rồi, cháu Hằng có gọi điện về bảo rằng nó đã bị mẹ và một số người khác lừa bán sang Trung Quốc, giờ không thể về nhà được nữa. Từ đó đến nay nó cũng không còn được gặp mẹ nữa".
Anh Moong Văn Hồng bên các con gái nhỏ
Từ ngày vợ bỏ đi, anh Hồng phải nai lưng cuốc rẫy, làm thuê để nuôi 4 đứa con nhỏ. Thiếu vắng sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, những đ.ứa t.rẻ ấy lâm vào cảnh bữa đói, bữa no, học hành bữa được bữa mất. Riêng em Moong Văn Bún (15 t.uổi, em kề Hằng) đã phải nghỉ học để theo người lớn vào Quảng Nam làm phu đãi vàng. Anh Hồng cũng đã từng vào đó làm một thời gian nhưng vì công việc nặng nhọc, thu nhập không đáng là bao, lại không đành lòng để 3 đứa con gái nhỏ sống lăn lóc, vất vưởng ở nhà nên anh lại trở về quê với các con.
* * *
Ông Lương Công Tình (70 t.uổi ở bản Cặp Chạng, xã Yên Tĩnh, Tương Dương) chia sẻ: "Từ bao đời nay, phụ nữ vùng cao nói chung, phụ nữ Thái nói riêng rất chung thủy, một lòng yêu chồng và thương con, không có chuyện bỏ nhà ra đi. Không hiểu vì sao thời gian gần đây, ở các bản làng vùng cao lại có những chuyện "động trời" như thế. Có lẽ các cấp, các ngành liên quan cần vào cuộc quyết liệt hơn trong việc nghiêm trị kẻ xấu, ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ và t.rẻ e.m để cứu giữ nền tảng đạo đức".
Thay cho lời kết của phóng sự này, chúng tôi xin phép được trích mấy câu thơ trong bài "Nỗi lòng đức lang quân" (Gửi tặng những người chồng có vợ bỏ đi nước ngoài) của ông Vi Khăm Mun, nhà giáo về hưu ở bản Xiềng Líp, xã Yên Hòa (Tương Dương):
"Em đi - vợ mất, nhà tan
Thân anh "gà trống" nuôi đàn con thơ
Thương con nheo nhóc, bơ phờ
Đứa khóc thét, đứa ngồi chờ chín cơm
Đứa thì dơ bẩn tay chân
Đứa cau đôi mắt, đứa hờn lông bông
Mình anh lưng bế, tay bồng
Đứa ôm cổ, đứa níu hông "Mẹ về?"
Em đi vào cõi "bến mê"
Biến anh thành ngọn "vọng thê" giữa đời...".
Theo 24h
Bộ đội biên phòng giải cứu 398 nạn nhân bị lừa bán qua biên giới Sáng 21-8, tại TP. Hà Giang, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng tổ chức Hội nghị tổng kết công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người trên tuyến biên giới Việt - Trung. Các đồng chí: Thiếu tướng Nguyễn Cảnh Hiền, Phó Tư lệnh BĐBP Đàm Văn Bông, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang tới dự. Lực lượng Biên...