Ngư dân và hành trình hướng biển
Người Việt đặt chân trên đất Quảng Ngãi, cùng với việc khai hoang lập ấp, vỡ ruộng trồng lúa khoai là khai thác các loài thuỷ sản (rong biển, ốc, cua, cá) làm thực phẩm. Ban đầu ở cửa sông, ghềnh biển, sau ra dần đến lộng, xa nữa là đánh cá ngoài khơi.
Suốt một thời gian rất dài, việc nhặt lượm thuỷ sản, dùng công cụ thô sơ để đánh bắt tôm cá chỉ mang tính tự cấp, tự túc, đáp ứng nhu cầu thực phẩm trong gia đình, khá hơn là trao đổi với láng giềng, chòm xóm. Tập quán lâu đời thiên về sản xuất nông nghiệp, trồng trọt cũng là một rào cản đáng kể trên con đường ra biển của người dân sống ven biển cả nước nói chung, Quảng Ngãi nói riêng.
Kéo lưới. Ảnh: Tiến Phúc
Hái lượm các loại rong tảo biển, bắt các loại sò ốc, câu cá quanh gành bằng cần câu, đánh cá trong lộng bằng thúng chai, ghe nhỏ và lưới gai cùng với đứng bè rớ ở cửa sông là những kiểu đánh bắt quen thuộc lâu đời của ngư dân Quảng Ngãi và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Đi dần ra phía biển, mạnh dạn thoát ly công việc ruộng đồng là những người đứng bè rớ của sông.
Vốn liếng đã lớn, lao động đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, thu nhập cũng cao hơn, họ trở thành một nhóm nghề nghiệp đặc thù và được gọi là “nậu rớ”. Nậu rớ hành nghề chủ yếu vào ban đêm, nhớ con trăng, xem con nước (Ba mươi mồng một rớ cột nước lên), hiểu luồng cá đi. Vạn Thu Xà, thuộc làng Thu Xà (sau trở thành thị tứ Thu Xà), ở phía đông huyện Tư Nghĩa, hạ lưu sông Vệ nằm trong số những vạn bè rớ hình thành đầu tiên ở tỉnh Quảng Ngãi.
Chỉ với những chiếc thuyền câu gắn buồm (điếu thuyền, tiểu điếu thuyền), không phải là lớn lắm, ngư dân khu vực Ba Làng An, Sa Kỳ (phía đông các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh-nay là TP.Quảng Ngãi) và về sau là hải đảo Lý Sơn (cù lao Ré) đã có thể ra tận vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa để khai thác nguồn lợi từ biển và thực hiện những nhiệm vụ do triều đình giao phó liên quan đến việc xác lập chủ quyền của Tổ quốc.
Video đang HOT
Từ sông ra biển, từ ven bờ ra lộng, từ lộng đến khơi, cư dân ven biển, hải đảo Quảng Ngãi cũng như khắp vùng duyên hải miền Trung đã tiến những bước dài trong cuộc hành trình gian nan chinh phục sóng to, gió cả.
Ngư nghiệp với vị trí là một ngành kinh tế quan trọng đã ra đời, vừa mang lại cái ăn, cái mặc cho người dân, vừa đóng góp vào quốc khố, qua việc nộp thuế bằng tiền hoặc hải vật. Dọc theo bờ biển Quảng Ngãi, từ Tổng Binh đến Sa Kỳ, từ Thu Xà đến Kỳ Tân, An Chuẩn, từ Mỹ Á đến Sa Huỳnh đã hình thành những làng, vạn nghề cá, tấp nập ghe thuyền.
Đánh cá bằng lưới mành, lưới quét, câu mực ngoài khơi xa là một bước tiến đáng kể của ngư nghiệp Quảng Ngãi và cả nước. Lúc này hải sản đánh bắt được đã khá phong phú về chủng loại, dồi dào về số lượng. Các ngư trường ở vùng biển Quảng Ngãi vốn dồi dào về tiềm năng khai thác thuỷ hải sản đã trở nên quen thuộc với ngư dân Quảng Ngãi. Kỹ thuật chế biến cũng đã có sự chuyển biến đáng kể, với việc xử lý cá mực đánh bắt được trong các chuyến ra khơi dài ngày bằng phơi khô và muối mặn ngay trên thuyền. Đời sống ngư dân đã có phần cải thiện. Cùng với thời gian và thực tế lao động, kinh nghiệm đi biển của ngư dân được nâng lên rõ rệt. Họ đã có thể nhìn trời, nhìn mây, nhìn màu nước biển mà phán đoán khá chính xác về thời tiết, về luồng cá di chuyển trên ngư trường.
Bắt cá. Ảnh: Lê Minh Thể
Kinh nghiệm đi biển chắc chắn là một trong nguyên nhân quan trọng khiến triều đình tuyển chọn ngư dân Quảng Ngãi sung vào các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, bởi vì một chuyến đi trên biển kéo dài sáu tháng, ngoài sức khoẻ, lòng can đảm, ngư dân cần có kinh nghiệm dồi dào để kịp thời đối phó với những bất trắc có thể xảy ra trên biển bất cứ lúc nào.
Sản xuất ngư nghiệp vượt khỏi thời kỳ tự cung, tự cấp. Thuỷ sản đã trở thành hàng hoá có sức hút mạnh mẽ trên thị trường trong tỉnh, trong nước; một số mặt hàng tham gia vào thị trường xuất khẩu qua ngã Thu Xà – Phú Thọ hoặc Hội An. Ghe kinh (ghe buôn bán đường sông) và nậu rỗi giữ vai trò quan trọng trong việc phân phối thuỷ hải sản nội địa, đặc biệt là vùng trung du, miền núi, vừa trang trải nguồn thực phẩm đến nhiều vùng trong tỉnh, vừa thu hút nguồn lợi lâm thổ sản phục vụ thị trường buôn bán ngoài tỉnh và xuất khẩu.
Cuộc hành trình hướng biển của bao thế hệ người Quảng Ngãi đã trở thành một phần không thể thiếu trong bản hùng ca làm chủ biển khơi của người Việt trong lịch sử. Bản hùng ca ấy đã đang và sẽ còn vang vọng trong tâm tư tình cảm bao thế hệ ngư dân Quảng Ngãi, mặc cho sóng gió hung hãn của thiên nhiên và nhân tai.
Trông lên tới đỉnh Hòn Son/ Son còn đỏ rực anh còn ra khơi. Một hòn núi nhỏ ven biển huyện Bình Sơn gọi tên là Hòn Son. Có những buổi chiều về, hoàng hôn phản chiếu đỏ rực trên đỉnh núi rồi loang thành nhiều vệt màu đỏ thắm, lung linh trên mặt nước. Ngư dân tin rằng đó là điềm báo biển khơi lặng sóng, thuyền cá được mùa. Cầu cho miềm tin ấy mãi mãi còn ở lại, mãi mãi mang lại cho những người đi biển cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc!
Theo Nguyên Tú (Báo Quảng Ngãi)
Khi những "nữ thuyền trưởng" vượt sóng
Đi biển là công việc nặng nhọc, vốn chỉ dành cho đàn ông sức dài vai rộng. Nhưng đâu đó ở những làng chài ven biển Quảng Ngãi vẫn có những người đàn bà hằng ngày đạp sóng vươn khơi.
Một ngày đầu tháng ba, tôi gặp nữ ngư dân Nguyễn Thị Mai, ở làng chài Tịnh Kỳ (TP.Quảng Ngãi) khi bà chuẩn bị ra khơi cùng chồng. Bà Mai năm nay đã 55 tuổi, trên người có đến 3 vết sẹo dài hơn gang tay sau những lần mổ sỏi thận, nhưng vẫn miệt mài vươn khơi. "Khi đứa con lớn được 5 tuổi, đứa nhỏ được vài tháng thì tôi bắt đầu đi biển cùng chồng. Nay thằng nhỏ vừa tròn 24 tuổi là 24 năm tôi ra khơi. Từ đánh bắt ở vùng biển xa như Ninh Thuận, cho đến biển gần ngoài Hòn Than, Sa Cần, Lý Sơn... tôi cũng đều song hành cùng ổng cho có bạn", bà Mai cười hiền tâm sự.
Bà Nguyễn Thị Mai, ở xã Tịnh Kỳ (TP.Quảng Ngãi) là một tay lái tàu tài ba, cùng chồng hành nghề giã cào đơn trên biển.
Quanh năm vươn khơi, nên thời gian nữ ngư dân Nguyễn Thị Mai lênh đênh trên biển còn nhiều hơn đất liền. Cứ 3 giờ chiều hôm nay đi biển, thì rạng sáng ngày mai, chiếc tàu giã cào đơn của hai vợ chồng chị mới bắt đầu cập bến. Bán cá xong cho thương lái, bà lại tất bật với công việc đan lưới, rồi cơm nước và chuẩn bị cho chuyến biển tiếp theo. Một điều "lạ" là đến xe máy bà Mai cũng chẳng biết lái, nhưng khi đi biển bà có thể thay chồng cầm lái thành thục.
Nói đến "nữ thuyền trưởng" của đời mình, ông Võ Thanh Dũng kể: "Nay đi khơi phải tàu to, máy lớn thì mới dễ tìm người đi bạn. Còn nhà tôi thuyền nhỏ, máy nhỏ, nên nếu bà ấy mà không đồng hành, thì tôi chẳng thể đi một mình. Công việc giũ lưới, kéo lưới nặng nhọc, dễ ngã, nên mỗi khi tôi ra boong kéo lưới, thì bà ở trong cứ thế lái tàu, không thua nam giới đâu".
"Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn", nên ở các làng chài ven biển, không riêng gì nữ ngư dân Nguyễn Thị Mai, mà đàn bà đi biển đã không còn là chuyện hiếm. Sinh ra từ làng biển, nghiệp biển gắn với đời họ lúc nào không hay. Chọn biển để mưu sinh cũng đồng nghĩa với việc những nữ ngư dân chấp nhận luôn những sóng gió, rủi ro có thể ập đến với mình bất cứ lúc nào.
"Những khi trời giông gió, biển động dữ dội lắm, thuyền mình cũng tròng trành, lắc lư liên tục. Không cầm lái cho đằm, thì thuyền lật như chơi. Nhưng rồi vì mưu sinh, vì tương lai của con cái, hai vợ chồng cứ thể đi biển", bà Trương Thị Nở, một nữ ngư dân gắn bó với biển gần 30 năm ở làng chài Châu Thuận Biển, Bình Châu (Bình Sơn) cho biết.
Đã 53 tuổi đời, 27 năm tuổi nghề, những sóng gió, rủi ro trong hành trình đi biển của mình bà Nở không kể xiết. Bà Nở bảo, vất vả là thế, nhưng chỉ có những ngày trăng sáng, bà mới ở nhà nghỉ ngơi, vá lưới, vui vầy cùng cháu con. Còn lại, bà đều cùng chồng lênh đênh trên biển để mưu sinh. Trong cuộc đời làm biển của mình, chiếc tàu công suất 17CV hiện giờ là chiếc tàu thứ hai mà vợ chồng bà sắm được. "Chiếc tàu cũ và mỏi lắm rồi nên cho nó "nghỉ". Còn mình, giờ tuổi đã cao, nên lắm lúc cũng mỏi, nhưng không đi biển thì không biết làm gì. Vả lại, cứ ở nhà dăm bữa là buồn chân, lại muốn đi", bà Nở tâm sự.
Lênh đênh trên những con thuyền tròng trành, lắc lư cùng sóng nước; những người đàn bà đi biển như bà Mai, bà Nở... vẫn cứ mải miết gắn bó với biển khơi. Với họ, hạnh phúc là khi được đồng hành cùng chồng vượt qua những tháng ngày vất vả, chông gai nơi đầu sóng.
Theo Ý Thu (Báo Quảng Ngãi)
Thị trường hải sản: Mát lòng mùa mở biển Một đêm đánh bắt gần bờ, mỗi tàu cá có thể thu vài chục triệu đồng. Cá biệt, có tàu trúng đậm các loại đặc sản, số tiền thu được phải đến hàng trăm triệu đồng. Nghề khơi rộn ràng, nghề bờ cũng có thu nhập không kém... Vui vì được mùa, được giá Tại cảng cá Sa Kỳ, Tịnh Kỳ vào những...