Ngọt ngào hương vị bánh quê
Không biết từ bao giờ, các loại bánh dân dã lại trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống ẩm thực của người dân Quảng Bình.
Những chiếc bánh xanh xanh, mộc mạc ẩn mình trong từng gói lá, hay ngay ngắn trên chiếc mẹt tre đã trở thành hình ảnh quen thuộc khắp các làng quê. Trong ký ức mỗi người, những thức quà thảo thơm của các bà, các mẹ không thiếu những món bánh trái đậm đà phong vị quê hương.
Làng Đức Phổ (Xã Đức Ninh ngày nay) là một trong những làng quê còn lưu giữ được rất nhiều nét văn hóa truyền thống, trong đó có văn hóa ẩm thực. Người Đức Ninh xưa và nay đều duy trì thói quen làm các loại bánh để đặt lên bàn thờ tổ tiên trong mỗi dịp lễ, Tết hay các buổi tiệc tùng, liên hoa thết đãi khách quý.
Ở Đức Ninh, không chỉ có phụ nữ mà nam giới cũng rất giỏi làm bánh. Hầu như nhà nào cũng có người biết chế biến nên những món bánh truyền thống, như: bánh in, bánh xoài (thường hay có mặt trên mâm cỗ ngày Tết), bánh lọc, bánh lá, bánh nậm… (trong các mâm cỗ cúng tổ tiên, tưởng nhớ người đã khuất). Với nguyên liệu chính là nếp và gạo, người Đức Ninh thường tạo ra nhiều loại bánh, như: bánh nậm, bánh chưng, bánh tét, bánh lá… Nhân bánh thường được làm bằng thịt lợn, tôm, mộc nhĩ, đỗ xanh kết hợp với tiêu, hành để cho ra đời các món bánh mặn hoặc cùng với đỗ xanh, gừng, đường, mè để tạo vị ngọt cho bánh. Người làm bánh thường dùng lá chuối sứ rửa sạch, cắt lá theo khuôn mẫu để tạo nên hình dáng của từng loại bánh như bánh nậm thường có độ dài chừng 1 gang tay, rộng khoảng 5 đến 7 cm; bánh chưng lại có hình vuông, bép tét hình tròn và các loại bánh vặn với 4 góc vuông tựa như mái nhà ngày xưa.
Bánh ít lá gai cũng là món bánh khá phổ biến của người Đức Ninh và các làng quê khác trong mỗi dịp lễ, Tết. Sở dĩ gọi là bánh ít vì tất cả nguyên liệu làm bánh đều được dùng với một số lượng ít, một chút ít bột, chút dừa thái sợi, chút đỗ xanh trộn mật mía hoặc đường. Để tạo ra sản phẩm bánh ít lá gai vừa ngon, vừa đẹp, người nội trợ phải chọn những bó lá gai non, bỏ gân, giã nhuyễn, chắt lọc lấy nước để trộn vào bột nếp hương đã xay sẵn tạo thành một khối bột màu xanh thẫm. Lá để gói bánh thường là lá chuối tươi được cắt thành hình vuông, vê tròn các góc. Người làm bánh ngắt từ khối bột đen nhánh đã được quyết nhuyễn và nắn chúng thành nắm nhỏ, cẩn thận cho nhân vào giữa rồi đặt vào lòng bàn tay lăn tròn như những viên kẹo nhỏ. Từng viên bột được đặt vào lá đã quết dầu thực vật sẵn để sau khi chín bánh không bị dính lá. Qua sự trau chuốt của người nội trợ đã tạo nên từng chiếc bánh có nhiều hình dáng khác nhau, phổ biến là hình vuông, hình chóp nón thẳng. Một chiếc bánh ít lá gai ngon phải có độ dẻo vừa, có vị tinh khiết của lá gai, vị thơm của gạo nếp, vị ngọt của mật, vị béo của dừa, vị bùi của đậu hòa quyện mà nên.
Một loại bánh khá phổ biến được rất nhiều người dân ở các địa phương ưa chuộng, có mặt trong nhiều cuốn địa chí của các làng quê Quảng Bình đó là bánh xoài. Có thể nói, bánh xoài đã trở thành món “ruột” cùng sánh đôi với bánh chưng, bánh tét vào mỗi độ xuân sang. Nguyên liệu chính để làm nên món bánh này thường là bột được lấy từ củ dong và trứng gà cùng sữa đặc hoặc đường trắng. Bánh được tạo ra bằng nhiều hình dạng khác nhau, như: hình trái tim, hình bầu dục, hình hoa… tùy thuộc vào sự lựa chọn khuôn bánh của người làm. Sau khi nướng chín, bánh có màu vàng ruộm, lan tỏa hương vị đặc trưng của trứng rất hấp dẫn.
Làng Văn La và nhiều làng quê khác ở Quảng Ninh lại có món bánh lòn, bánh nóc chùa, bánh mật, bánh su sê, bánh cốm… được làm chủ yếu từ gạo tẻ, nếp, bột sắn kết hợp với những thành phần khác như tôm chấy, thịt chấy, hạt tiêu, hành củ (bánh lòn, bánh nóc chùa), hay đỗ xanh, mật mía, mè, cùi dừa, gừng… (để tạo nên bánh bánh mật, bánh su sê, bánh cốm)… Mỗi loại bánh có một hình dáng, hương vị khác nhau, tạo nên nét phong phú trong đời sống ẩm thực của người dân quê.
Video đang HOT
Một trong những loại bánh đặc trưng níu chân không biết bao nhiêu thực khách đó là bánh bột lọc – món bánh được xem là đặc sản của người miền Trung, trong đó nổi tiếng nhất là xứ Huế và Quảng Bình. Công thức làm bánh bột lọc cũng khá đơn giản. Nguyên liệu đầu tiên để làm bánh thường là bột năng, hoặc bột sắn. Nhân bánh thường được làm bằng tôm đất tươi, hoặc có thể cho thêm thịt lợn ba chỉ xắt hạt lựu cùng mộc nhĩ hoặc măng tre tùy theo khẩu vị rồi xào vừa chín. Nhằm bảo đảm được độ thẩm mỹ cho từng chiếc bánh, người làm bánh thường gói bánh bằng lá chuối tươi để sau khi chín, bánh vẫn còn mang màu xanh của lá. Một chiếc bánh bột lọc đạt yêu cầu là khi bóc ra, lát bánh có độ trong vừa phải, không đọng bột, khi ăn cảm nhận được độ giòn, dai của bột cùng với vị mặn, ngọt thanh nhẹ của nhân bánh. Bánh ngon hơn khi được dùng với nước mắm ngon hòa thêm chút chanh đường, ớt, sa tế. Bánh bột lọc mà người dân quê quen gọi là “bột bọc bọc tôm” ngày nay không chỉ là sản phẩm được nhiều khách du lịch ưa chuộng thưởng thức, mà còn là món quà quê không thể thiếu đối với những người con Quảng Bình xa xứ.
Món bánh xèo dân dã là một trong những món ăn đặc trưng của làng Thổ Ngọa
Về Thổ Ngọa, một làng quê nhỏ của phường Quảng Thuận, thị xã Ba Đồn, thực khách lại được thưởng thức những món bánh được xem là “đặc sản” của làng như bánh tráng, bánh ướt, bánh chì, bánh xèo, bánh cuốn, bánh ít, bánh gai, bánh mật, bánh trôi…. Chợ Họa của làng là nơi bày bán tất cả các loại bánh trên nên người dân trong làng từ bao đời nay có thói quen ăn sáng ở chợ. Mỗi sáng sớm, góc hàng ăn chợ Họa khá nổi bật bởi những lò than đỏ rực và mùi thơm lan tỏa thay cho lời mời gọi thực khách của các chủ hàng. Chỉ một lần được thưởng thức vị ngọt bùi của đỗ xanh, mật mía… trong từng chiếc bánh nếp, hay vị ngọt nhẹ, thơm nồng của bánh chì, bánh lá, vị mặn, ngọt đặc trưng của bánh cuốn, bánh bèo… làm cho nhiều thực khách lưu luyến với chốn chợ quê bình dị. Nhiều gian hàng bánh đã trở thành điểm đến yêu thích không chỉ của người dân trong làng mà còn níu chân du khách thập phương và những người con xa quê quê có dịp về làng như hàng bánh cuốn bà Bông, bánh xèo bà Hòe, bánh đa chị Quế… tạo nên nét văn hóa riêng có của làng quê.
Bánh – thức quà mộc mạc song có một giá trị, một chỗ đứng riêng trong văn hóa ẩm thực của các làng quê. Được làm nên từ hạt lúa, củ khoai… từ đôi bàn tay khéo léo của các bà, các mẹ, các loại bánh quê trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức tuổi thơ của mỗi người con làng bánh, để rồi khi xa lại mang theo nỗi nhớ quê hương, nơi có từng làn hương quen thuộc vấn vương theo khói bếp, nơi có những ngày thơ dại ngồi tựa cửa chờ mẹ đi chợ về để được hít hà trong từng hương vị bánh quê.
Những loại bánh lá ngon "nức tiếng" làng ẩm thực Việt Nam
Đặc sản bánh Việt rất nhiều loại và kiểu dáng, hương vị khác nhau, dưới đây là những loại bánh lá nổi tiếng trong ẩm thực Việt.
Bánh gio, bánh tro - Bắc Giang
Khi lớp lá cuối cùng được bóc ra, chiếc bánh như một khối ngọc màu hổ phách trong vắt lộ ra, có thể nhìn thấu bên trong khối ngọc đó từng hạt gạo nếp nhỏ óng ánh. Khi ăn, chấm bánh vào bát mật mía vàng óng, thơm phức rồi nhẩn nha tận hưởng hương vị rất lạ của bánh tro.
Bánh chưng, bánh tét
Bánh chưng ("chưng" trong "chưng cất", nghĩa là hấp nước, nhưng thực tế bánh được nấu bằng cách luộc) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh chưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10 tháng 3 âm lịch).
Bánh chưng (Ảnh: Internet)
Bánh tét, có nơi gọi là bánh đòn, là một loại bánh trong ẩm thực của cả người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và miền Trung Việt Nam, là nét tương đồng của bánh chưng ở Miền Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong, vì vậy nó cũng được sử dụng nhiều nhất trong dịp Tết Nguyên đán cổ truyền của dân tộc Việt Nam với vị trí không khác bánh chưng. Nhưng cũng có nhiều bánh tét nhân chuối hay đậu đen được làm hay là bán quanh năm.
Bánh gai - Nam Định
Từ xưa, Nam ịnh vẫn có truyền thống làm bánh gai, lá gai ngay Cầu Ốc cũng có nhiều nhà trồng. Cách ăn cũng nghệ thuật. Bánh bóc làm sao khỏi dính lá, khi ăn sao cho khỏi rơi nhân.
Bánh tẻ
Bánh tẻ, có nơi gọi là bánh lá hoặc bánh răng bừa vì có hình dáng giống cái răng bừa, là thứ bánh truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa, Việt Nam.
Bánh tẻ (Ảnh: Internet)
Bánh được làm từ bột gạo tẻ, gói ngoài bằng lá dong và được luộc cho chín. Mỗi địa phương có cách làm bánh tẻ riêng, ít nhiều khác nhau.
Bánh ít - Bình Định
Một chiếc bánh ít ngon được đánh giá là phải dẻo nhưng khi ăn thì không bị dính răng, có vị tinh khiết của lá gai, vị dẻo thơm của gạo nếp, vị ngọt của đường, vị béo của dầu, vị bùi của đậu hòa quyện mà thành.
Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng đầy hấp dẫn. Bánh ít lá gai là đặc sản của đất võ Bình Định, về sau lan rộng ra các tỉnh thành và trở nổi tiếng trong văn hóa ẩm thực miền Trung.
Phương Vũ
Tết về nhớ bánh mật xưa Có nhiều người nói và nghe nhắc "nước da bánh mật" nhưng mấy người biết đến "bánh mật", thứ bánh quê mùa này. Xưa nay, quà quê có nhiều loại bánh trái, như bánh nếp, bánh tẻ, bánh sắn, bánh khoai, bánh gai, bánh rán... cùng những thứ bánh thông dụng kia, từ cầu chợ cho đến quán hàng còn phải kể đến...