Ngôi nhà “sáu bà một ông”
“Tôi lấy vợ chỉ vì tình thương chứ không có yêu đương gì. Họ tình nguyện thì tôi chấp nhận chứ không có chuyện ép buộc ai ở đây cả”.
Đó là lời trần tình của ông Nguyễn Văn Tiến (SN 1959), trú bản Cam, xã Cam Lâm, huyện Con Cuông (Nghệ An) – người được cho là đào hoa nhất miền Tây tỉnh Nghệ An khi cưới được đến… 6 người phụ nữ. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian, các bà vợ đã lần lượt phải tự ra đi vì không thể chịu được cảnh chung chồng. Họ đành sống cô đơn với nỗi ân hận vì đã từng lú lẫn vì tưởng đó là tình yêu.
Yêu là… cưới
Ông Nguyễn Văn Tiến là người đàn ông cường tráng với dáng người cao, khuôn mặt chữ điền, đặc biệt ánh mắt đa tình khiến ông trẻ hơn nhiều so với độ tuổi 60 của mình. Thêm vào đó, cách nói chuyện hóm hỉnh với nụ cười có lúm đồng tiền trên má là một điểm cộng của người đàn ông đào hoa nổi tiếng nhất miền Tây Nghệ An này. Chia sẻ về chuyện đưa 6 người phụ nữ đến về ở chung một nhà với mình, ông nói: “Tôi lấy vợ chỉ vì tình thương chứ không có yêu đương gì. Họ thương yêu mình thì mình chấp nhận chứ tôi cũng không ép buộc gì”.
Hiện nay, gia đình ông Tiến thuộc dạng khá giả nhất bản Cam. Ngoài làm nương rẫy, ông còn kiêm thêm nghề bốc thuốc chữa bệnh và buôn bán, do vậy cuộc sống luôn đầy đủ, sung túc. Ông vốn sinh ra trên mảnh đất nghèo của huyện Tương Dương (Nghệ An), lớn lên phiêu dạt khắp nơi với nghề buôn bán. Cho đến một ngày khi đi qua huyện Quỳ Hợp ông đã có tình cảm với bà Lý Thị Hoan (SN 1961). Không lâu sau đó họ nên duyên vợ chồng rồi cùng nhau lên huyện Con Cuông lập nghiệp. Mặc dù khi lên đây chỉ với hai bàn tay trắng nhưng với kinh nghiệm buôn bán từ trước nên cuộc sống của hai vợ chồng nhanh chóng ổn định. Hai người có chung với nhau ba mặt con, gia đình lúc nào cũng rộn rã tiếng cười.
Ông Nguyễn Văn Tiến – Người đàn ông có 6 người vợ
Mặc dù đã có gia đình hạnh phúc, kinh tế khá giả, thế nhưng nhờ cách nói chuyện hóm hỉnh, cộng với sự đào hoa nên không lâu sau thời gian sống với người vợ đầu tiên, ông Tiến đã khiến một người phụ nữ khác là bà Lô Thị Xuyên say như điếu đổ. Năm 1992, người đàn ông này quyết định cưới thêm bà Xuyên về làm vợ. Mặc dù, đã cố gắng khuyên bảo nhưng do yếu thế không cản được chồng, bà Hoan đành lặng lẽ chấp nhận cảnh chung chồng. Sống kiếp chồng chung, lúc đầu hai bà có nhiều xích mích, ghen tỵ trong cuộc sống nhưng sau đó ông Tiến đã dàn xếp ổn thỏa. Một số người làng còn kể lại: “Mỗi bà một công việc, không ai tị nạnh ai, không những vậy họ còn xem nhau như chị em ruột trong nhà”.
Cuộc sống của đại gia đình cứ thế êm đềm trôi qua cho đến một ngày, ông Tiến trở về thăm quê ở huyện Tương Dương. Lần này, ông phải lòng một cô gái mới lớn tên là Lô Thị Phượng. Và cũng như lần trước, sau khi “tán” đổ cô gái này ông về nhà đòi cưới thêm vợ ba. Hai người vợ trước kịch liệt phản đối nhưng cuối cùng đã không thắng được chồng mình. Một đám cưới lại được tổ chức linh đình dưới sự chứng kiến của hai người vợ trước và bà con bản làng. Vậy là, một lúc ông Tiến cùng chung sống với ba người vợ trong một mái nhà. “Thời gian đầu, các bà cãi nhau chí choé nhưng sau một thời gian họ lại thương yêu nhau như chị em trong nhà. Người dân trong bản ai cũng ngạc nhiên về cách đối xử của ba người vợ ông Tiến. Đặc biệt những đứa con chung được các bà yêu thương chăm sóc như con của mình vậy”, anh Lô Văn Nộ, một người hàng xóm kể.
Tưởng chừng cưới đến ba vợ đã là quá lắm nhưng sau đó ông lại tiếp tục “chiêu” cũ lấy thêm… ba bà nữa. Nói về sự “quá đáng” này, ông Tiến trần tình: “Tôi biết cưới nhiều vợ là vi phạm luật hôn nhân gia đình. Nhưng tất cả những người vợ của tôi đều đem lòng yêu thương tôi, muốn chung sống cùng tôi, tôi cũng không ép buộc họ điều gì cả. Họ thương mình thì mình thương lại thôi”. Im lặng một lát ông còn nói thêm: “Tôi biết đời con gái chỉ có một lần trong đời được lên xe hoa nên phải tổ chức đám cưới linh đình cho họ đỡ tủi thân”.
Video đang HOT
Lô Thị Lý – 1 trong 6 người phụ nữ tình nguyện làm vợ người đàn ông đào hoa
Bi kịch “chồng chung”
Bà Xuyến, người vợ thứ hai tâm sự: “Tôi cũng không hiểu vì sao lại yêu và quyết định lấy ông ấy nữa, mặc dù biết ông đã có vợ con nhưng từ khi gặp mặt, đêm nào tôi cũng thấy nhớ ông ấy. Nhiều lần tôi đã hạ quyết tâm sẽ yêu và lấy người đàn ông khác chưa có gia đình, nhưng tôi không thể nào làm được điều đó. Vẫn biết làm vợ bé sẽ chịu nhiều thiệt thòi, nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn chọn ông ấy”. “Ngày xưa tôi vẫn thầm ước ao, mình sẽ lấy một người chồng trẻ, rồi ra thị trấn hoặc một nơi giao thông thuận tiện, đời sống khá hơn để có một tương lai tươi sáng hơn. Nhưng từ khi yêu ông ấy, tôi như người mộng mị, chỉ muốn lên miền núi để được sống với ông ấy”, bà Xuyên ngậm ngùi nói.
Chính quyền bó tay?
Ông Lô Văn Duy, trưởng bản Cam trình bày: “Chúng tôi đã nhiều lần khuyên can và sau đó là xử phạt nhưng vẫn không được. Ông ấy cứ tự cưới chứ có đăng ký gì đâu. Xử phạt thì ông ấy nhận nhưng rồi rồi lại tiếp tục tái phạm. Do vậy số vợ của ông ngày càng nhiều”.
Cũng theo bà Xuyến thì ông Tiến là một người ăn nói nhỏ nhẹ, trong sinh hoạt hằng ngày ít khi ông to tiếng với bà nào hay tỏ ra thiên vị ai quá mức. Nếu có xích mích giữa các bà vợ, người ông lại khéo léo vào cuộc để giải quyết những xung đột. Thời gian đầu, đặc biệt khi vợ còn… chưa quá nhiều, cuộc sống gia đình cũng chưa phát sinh những mẫu thuẫn quá lớn. Đối với những người phụ nữ khi đã chấp nhận số phận sống chung chồng, họ sẽ không dám tị nạnh ai, bởi lẽ việc làm của họ là tự nguyện. Hơn nữa, họ nghĩ rằng nếu muốn làm lại cuộc đời thì cũng đã quá muộn, vì vậy chỉ còn cách chấp nhận sống “kiếp chồng chung” như vậy mà thôi.
Tuy nhiên, khi ông Tiến lấy đến bà vợ… thứ sáu thì cuộc sống gia đình đã trở thành địa ngục. Ông Tiến chia nhà mình thành nhiều buồng, ngăn cách bởi những chiếc ri đô mỏng tanh cho mỗi bà vợ một “vương quốc riêng”. Lịch sinh hoạt vợ chồng được ông chia đều theo một lịch có sẵn. Tuy mỗi bà đã có một “vương quốc” nhưng “biên giới” chỉ là những bức ri-đô mỏng nên hàng đêm, khi ông “thăm” một bà thì năm bà còn lại đành phải ra ngoài cho đến khi “xong việc” mới vào nhà vì không thể chịu nổi. Sau một thời gian như vậy, 4 bà vợ của ông Tiến đã tự nguyện ra đi ở riêng. Hiện giờ, ông sống cùng với bà vợ cả và vợ thứ năm cùng con của những người vợ đó. Thỉnh thoảng ông Tiến cũng có ghé qua mấy bà vợ đã ra ở riêng để thăm hỏi, động viên. “Hôn nhân là do duyên số cả, số tôi đào hoa nên các bà cứ tình nguyện theo nên tôi chấp nhận. Hết duyên thì họ bỏ đi, tôi cũng không muốn núi kéo thêm. Nếu cảm thấy không sống được thì nên giải thoát cho nhau, đó là cách tốt nhất”, ông Tiến lý giải.
Bà Xuyến, người vợ thứ hai của ông Tiến ân hận nói: “Tôi cũng không hiểu ông lấy nhiều vợ như vậy để làm gì nữa. Đúng là lòng tham con người vô đáy. Không chịu đựợc cảnh chung chồng với các bà khác, tôi đã rời xa ngôi nhà đó để về quê nhà”. Sau khi rời xa ngôi nhà ấy, vì phong tục của bản làng nên bà Xuyên không đi thêm bước nữa mà cam chịu sống cuộc sống cô đơn. “Không chồng, không có con cái sau này già cả tôi cũng không biết nương tựa vào ai nhưng đành chấp nhận chứ tôi không chịu được cảnh chung chạ mãi”, người đàn bà này nói với giọng cứng rắn. Cùng tâm sự như những người vợ đầu, bà Nguyễn Thị Thậm, người vợ thứ 6 cũng rơi vào hoàn cảnh chán nản vì kiếp chung chồng. Đối với bà, sau lần gặp đầu tiên, mặc dù biết rõ lai lịch của người đàn ông này nhưng như ma xui quỷ khiến bà vẫn chấp nhận lấy ông làm chồng để rồi sau đó bà đã hiểu ra mọi chuyện. “Lúc đầu, tôi cũng chỉ nghĩ đơn giản, chỉ cần yêu ông ấy tôi sẽ vượt qua tất cả. Nhưng sống chung một thời gian tôi mới biết được nỗi khổ vô bờ bến đó. Hơn nữa, hôn nhân mà không có đứa con gắn kết thì khó mà chung sống được với nhau. Khi đã hết tình cảm thì không còn gì để vương vấn, nên đành chấp nhận ra đi”.
Theo 24h
Hai mẹ con 'lấy chung chồng'
Hồng ở với mẹ và bố dượng được 3 tháng thì có thai với dượng. Từ đó, hai mẹ con sống cảnh 'chồng chung' cay đắng.
Đó là câu chuyện ở xã Trà Giác, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam. Bà Huỳnh Thị Ngọc hơn người tình Đinh Hồng Tịnh (chàng trai người Ca Dong) đến 15 tuổi. Con riêng của bà, chị Hồng sau khi tới ở với mẹ và bố dượng được 3 tháng, bỗng có thai với dượng. Thế là từ đó hai mẹ con sống cảnh "chồng chung".
Căn nhà bà ở không hơn túp lều là mấy nhưng lại là chỗ nương thân của 7 con người lam lũ nghèo khó. Bà Ngọc ngồi bên trong chiếc chõng tre đặt ngoài chái, rót nước từ chiếc ấm nhôm bẹp rúm mời, quanh quẩn là 4 đứa nhỏ mặt mũi nhem nhuốc, và câu chuyện buồn được bà kể chậm rãi...
Hồi ấy là đầu năm 1990, Huỳnh Thị Ngọc một thân một mình lên Trà My buôn bán làm ăn. Ở giữa nơi rừng thiêng nước độc, lại thân cô thế cô nên có nhiều nguy hiểm, và cũng buồn tủi vì thân gái dặm trường. Lúc ấy một chàng trai người Ca Dong hiền lành, chịu khó thường hay đến mua hàng hóa của bà, thấy Ngọc cô độc một mình nên thấy thương.
Sau nhiều lần qua lại mua bán, hai người kết thân với nhau. Cũng không biết Ngọc có ma lực gì, mà chỉ một thời gian ngắn, Đinh Hồng Tịnh (chàng trai người Ca Dong) đã bỏ quên cô bạn gái sắp cưới để về sống chung với người hơn mình những 15 tuổi. Cũng chẳng cưới xin gì, về ở với nhau và sau sáu năm hai đứa con lần lượt ra đời.
Bà Ngọc (55 tuổi) đang nuôi những đứa con và cả những đứa "cháu ngoại"
Cuối năm 1999 thấy làm ăn buôn bán dễ dàng, bà Ngọc về quê nhà ở biển Tam Thanh (nay thuộc Tam Thanh, TP Tam Kỳ) dẫn đứa con gái đầu là bé Hồng, lúc đó bé mới 16 tuổi để cùng phụ mẹ và dượng buôn bán. Ở với mẹ và bố dượng được ba tháng, Hồng có thai với... dượng. Bà Ngọc nổi cơn tam bành, cứ suốt ngày chửi bới, rồi đuổi Hồng ra khỏi nhà, bắt lên rẫy xa dựng chòi để ở.
Thời gian sau một bé gái ra đời. Cũng chẳng biết ông chồng thuyết phục thế nào mà bà Ngọc đồng ý cho con gái ôm con về ở chung với mình thành đại gia đình. Tưởng một lần lầm lỡ rồi thôi, ai ngờ chín tháng sau, Hồng lại có thai với... dượng lần nữa.
Phen này bà Ngọc làm căng, chửi bới nhiếc móc suốt ngày, Hồng tủi cực quá đang phải mang bụng chửa vượt mặt sang Trà Giáp nấu cơm thuê cho cánh công nhân. Đến ngày chuẩn bị sinh nở, Hồng quay về nhà. Lúc đó, mẹ cô cũng sắp sinh. Thế là hai mẹ con cùng sinh một năm cho cùng một người "chồng".
Rồi những ngày tháng cả hai mẹ con vượt cạn là những ngày tháng người chồng phải chạy vạy khắp nơi, lo toan đủ thứ. Người ta bảo khổ như vợ đẻ. Đằng này người chồng này lại cùng lúc chăm cho 2 bà vợ trong cùng một ngôi nhà, với những điều kiện khốn khó không thể kể xiết. Mấy đứa trẻ chơi quanh quẩn bên cạnh bố mẹ. Trong số những đứa trẻ sàn sàn tuổi nhau này, lẽ ra đứa này phải gọi đứa kia là cậu ruột, nhưng số phận lại buộc tụi nó gọi nhau là anh em.
Ông chồng thì vừa mới qua tuổi 41, còn bà vợ cả đã chạm tuổi 55. Mấy đứa con chung đang cười đùa rất ngây thơ, xúm xít xung quanh. Tụi nó cười toe toét, hồn nhiên như cây cỏ, như không hề biết là giông bão đã ập đến từ đâu. Vợ chồng bà cũng cười ngượng nghịu... Bà nức nở tâm sự với những lời lẽ như hối hận: "Ông ấy năm nay tuổi 41. Tôi vừa tròn 55 tuổi. Vì cái nghèo không tìm được lối thoát nên không thể lường được "hai mẹ con lấy chung chồng". Khi biết, mọi chuyện đã quá muộn".
Chị Thanh, một người cùng xóm gần đó nói: "Lúc ấy biết chuyện, bà con cũng góp ý nhiều lắm, thôn rồi xã cũng có người gọi bả lên làm việc nhưng bả đâu có nghe, còn chửi chúng tôi không ra gì, rằng chuyện riêng của gia đình người ta, xía vô làm gì? Còn nói chuyện khuyên răn với con bé thì nó cũng không nghe, còn bảo rằng, ông ấy thương tôi hơn thương mẹ tôi! Vậy là hết nói nổi!".
Trong số những đứa trẻ này, lẽ ra đứa này phải gọi đứa kia là cậu ruột, nhưng số phận lại buộc chúng gọi nhau là "anh em".
Trong câu chuyện về nhà bà Ngọc, một người đàn ông hàng xóm kể lại với những cái lắc đầu ra chiều không đồng ý: "Mỗi lúc uống rượu với tui, thằng Tịnh nó sung sướng không ai bằng vì có bà lớn bà nhỏ, mà bà nhỏ thì thương hơn. Nhưng nó cũng than không có cái chi cho hai bà vợ ăn hết, ngày ngày nó làm quần quật trên nương trên rẫy để có tiền lo cho mấy đứa nhỏ. Thấy cũng tội".
Khi thấy Hồng có thai đứa thứ ba với cha dượng, làng xóm nói quá nên Hồng về quê, phá thai rồi lại tiếp tục ở đây với mẹ và cha dượng. Nhưng cũng từ đó hai mẹ con cãi nhau suốt ngày. Khi đứa con thứ hai được hai tuổi, Hồng bỏ nhà ra đi bởi bà Ngọc bắt phải đi vì hai mẹ con không thể chung chồng, bỏ lại mấy đứa con cho bà Ngọc nuôi.
Một thời gian sau Hồng cũng quay về thăm con, son phấn lòe loẹt, đổi giọng miền nam, rồi sau lần ấy đi biệt luôn, nghe đâu Hồng đã lấy chồng Sài Gòn. Bây giờ thì hai đứa con của Hồng sống chung với "cha và bà ngoại". "Mấy đứa con của Hồng không kêu bà Ngọc là bà mà kêu là mẹ, vì bả bắt kêu như rứa, nhưng đối xử tàn tệ với tụi chúng lắm, đánh đập suốt ngày như kiểu mẹ ghẻ thù con chồng", một người hàng xóm cho biết.
Chuyện nuôi những đứa trẻ ở đây gặp không ít khó khăn bởi bản thân địa phương là một xã nghèo, kinh tế của những người xung quanh cũng không khá khẩm hơn nên chỉ thi thoảng giúp đỡ bọn trẻ được ít gạo, ít sách vở, quần áo. Mấy đứa bé con Hồng rất muốn gặp mẹ nhưng bố không cho và cũng rất sợ mẹ Ngọc nên không dám nói.
Mấy đứa trẻ này cũng không thể đưa vào diện mồ côi để đưa đến các trung tâm chức năng được bởi lẽ theo quy định, phải có giấy chứng tử của cha hoặc mẹ. Như vậy, làng SOS mới tiếp nhận.
Hiện giờ, mấy đứa con của Hồng với bố dượng vẫn sống ở ngôi nhà đó, đã vào học cấp 2. Giữa vùng đại ngàn mọi việc đều hành động theo bản năng, không dễ gì lay chuyển. Một cán bộ xã chia sẻ: "Gạo đã thành cơm rồi, mấy đứa nhỏ nay cũng đã hơn 10 tuổi, khơi lại nỗi đau thì tội nó, hơn nữa đây là vùng thiểu số với nhiều hủ tục, khó thay đổi lắm".
Theo Kinh Doanh & Pháp Luật
Tôi phải chung chồng vì không con nối dõi Từ ngày Lan vê ở chung,tôi nêm đủ sự tủi nhục. Chông tôi dọn sang phòng cô ấy và họ ngangnhiên thê hiên tình cảm trước mặt tôi. Chông tôi và tôi quen nhauqua sự giới thiêu của bô mẹ hai bên. Khi lây nhau, cả anh và tôiđêu đã 30 tuổi, cái tuôi mà danh "ê" đã được gắn vào với haiđứa....