Ngôi làng “ma” sau 15 năm mới có một đám cưới
Ngôi làng này thuộc xã Xuân Giang (Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Điều đặc biệt đối với ngôi làng này là sau mười lăm năm chờ đợi, trong làng mới có một đám cưới được tổ chức.
Cách TP Vinh chưa đến 1 km về phía đông nam, nhưng để đến được ngôi làng này chỉ có một phương tiện duy nhất là đò. Mất 15 phút đi đò từ đất liền ra làng Hồng Lam, ngôi làng được người dân quen gọi là “ốc đảo”.
Ngôi làng “già”
Được biết, ngôi làng nằm giữa sông Lam này đã hơn chục năm không có một đám cưới, do con em trong làng lớn lên đi làm ăn xa, rồi lập gia đình ở những nơi khác, ít ai làm ăn ở quê.
Có nhiều lý do buộc những đứa trẻ vừa lớn lên phải rời bỏ quê hương nhưng rõ nhất là cái nghèo và sự khắc nghiệt của mảnh đất này. Gió bão năm nào cũng tới, có khi dồn dập. Đất đai vốn ít ngày càng mất đi, lại cằn cỗi. Riêng mấy năm nay bão đã đánh sập và “hốt” đi của làng gần chục căn nhà.
Một người dân khác trong làng cho biết thêm: “do giao thông khó khăn, đi lại bất tiện, nên người ta chán làm ăn, sinh sống và muốn bỏ đi một nơi khác tìm cuộc sống thuận lợi hơn. Chờ đợi suốt mười mấy năm rồi bây giờ mới có một đám cưới được tổ chức nên mọi người trong làng ai cũng rất vui”.
Do nằm ở địa hình hiểm trở trên một cồn đất lớn, bốn bề sông nước mênh mông, nên trong chiến tranh, đây là điểm tập kết quân, đạn dược, lương thực…
Từ trên thuyền nhìn về làng Hồng Lam heo hút
Mười lăm năm có một đám cưới
Video đang HOT
Ông Quý, một người sống gần 70 năm ở làng cho biết: “Thanh niên trong làng giờ đếm trên đầu ngón tay, bọn nó giờ đi làm ăn xa hết, có nhiều đứa tết có về đâu, cũng do mảnh đất khắc nghiệt này nên chỉ có những người như chúng tôi mới bám trụ lại đây thôi”.
Mới hồi đầu tháng 2/2014, cả làng hân hoan đón đám cưới của một cô gái tên là Tú Anh, con gái ông Nguyễn Xuân Quý lấy chồng làng bên, sau 15 năm chưa có một thanh niên nào trong làng tổ chức đám cưới nên đối với người dân nơi đây, sự kiện này đã phá được cái “dớp” suốt nhiều năm “không thấy tình yêu kết trái”. Có nhiều người đồn rằng ngôi làng này do có “ma” nên thanh niên trong làng không thể lập được gia đình ở đây, đành phải đi nơi khác.”Suốt nhiều năm làng không có đám cưới tôi lo lắm, bây giờ con gái tôi đã đi lấy chồng và được tổ chức tại nhà, tôi thật may mắn, hi vọng từ bây giờ thanh niên trong làng không phải tha phương để lập gia đình” – ông Quý nói thêm.
Phương tiện để vào đất liền của người dân không có gì khác là đi đò.
Cần sự hỗ trợ của các cấp chính quyền
Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch xã cho biết, cả làng có gần 100 hộ dân, diện tích đất tự nhiên của làng trên 400 ha nhưng không làm được gì, vì đất phèn nên chủ yếu dân sinh sống bằng nghề trồng đay, trồng lạc, một số ít đánh bắt cá… Do vậy nước ngọt ở đây cũng rất hiếm, nhiều hộ gia đình phải hứng nước mưa để nấu ăn hoặc lấy từ giếng lên lọc qua rất nhiều lần để sinh hoạt.
Làng Hồng Lam xanh rợp bóng cây nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng một quán xá nào, chỉ có những con đường vắng ngắt và những cánh cổng khóa bằng những dây cáp và ống khóa hoen gỉ do hơi nước mặn, những vườn không nhà trống với mái chạn nhô cao.
Ở làng Hồng Lam, hầu như nhà nào cũng có con đi xa. Cái nghèo, sự mặc cảm về “làng ma” nên cũng ít ai ra đi xưng mình là cư dân Hồng Lam. Nhiều gia đình có tới năm, bảy người con nhưng rốt cuộc bố mẹ già vẫn côi cút một mình vì đàn con đã bỏ đi làm ăn xa. Có những cụ già khi nhắc đến chuyện con cái chỉ ứa nước mắt mà lòng ứ nghẹn…
Khó khăn như vậy, nhưng người dân và con em ở đây vẫn không được hưởng một chế độ nào dành cho vùng khó khăn. Họ chỉ được hưởng chế độ khu vực 2 nông thôn như những hộ dân khác trong huyện. Thiết nghĩ, ở một vùng khó khăn như vậy, xóm Hồng Lam cần nhiều hơn nữa sự quan tâm, đầu tư đúng mức của chính quyền, để người dân nơi đây có thể yên tâm “an cư, lạc nghiệp” trên chính mảnh đất quê hương mình.
Theo Sơn Nguyễn (Gia đình & Xã hội)
Thắp đèn dầu sống cạnh... nhà máy thủy điện
"Huyện cũng rất muốn đưa điện vào cho người dân sử dụng nhưng tiền để xây dựng hệ thống đường dây truyền tải điện không có. Không có kinh phí nên cũng chưa biết bao giờ người dân mới có điện lưới sử dụng".
Là xã "hi sinh" phần lớn diện tích đất phục vụ cho việc xây dựng nhà máy thủy điện Bản Vẽ, nhưng gần 2.500 người dân xã Hữu Khuông, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An phải sống trong cảnh không có điện, phải thắp đèn dầu sinh hoạt. Không có điện lưới, không hệ thông tin liên lạc, không hệ thống đường giao thông, người dân ở xã miền núi này sống cô lập với thế giới bên ngoài.
Hi sinh đất để làm thủy điện nhưng người dân xã Hưu Khuông phải thắp đèn dầu để sinh hoạt.
"Ốc đảo" Hữu Khuông
Từ thị trấn Hòa Bình, huyện Tương Dương men theo con đường chạy sát triền núi đi khoảng 20km, chúng tôi đến nhà máy thủy điện Bản Vẽ ở xã Yên Na. Nhà máy thủy điện lớn nhất khu vực Bắc Miền Trung nằm sừng sững ở lưng chừng núi. Tại bến Thượng Lưu (nằm cạnh nhà máy thủy điện Bản Vẽ) chúng tôi đi thuyền máy ngược theo dòng Nậm Nơn để đến xã Hữu Khuông. Thủy điện Bản Vẽ tích nước, nhiều cánh rừng, bản làng người dân ở trước đây đều chìm trong biển nước.
Anh Lữ Văn Luyện, trú xã Yên Na, người lái thuyền chở chúng tôi ngược dòng Nậm Nơn vào xã Hữu Khuông cho biết: "Để vào xã Hữu Khuông cách duy nhất là đi thuyền dọc theo dòng Nậm Nơn, mùa này thủy điện tích nước nên thuyền đi lại dễ dàng. Còn vào mùa khô, mùa hè, nước rút, nhiều đoạn thuyền không đi được, để đi vào những bản có dân ở, sau khi đi thuyền phải đi bộ dọc theo khe suối cả tiếng đồng hồ".
Các em học sinh Trường THCS xã Hữu Khuông mơ ước sẽ có điện thắp sáng để học bài.
Sau 2 giờ đi thuyền, chúng tôi đến được bản Con Phen, bản nằm ở lừng chừng đồi. Con Phen là trung tâm của xã Hữu Khuông nhưng bản chỉ leo teo vài căn nhà, và một số công trình như trường học, trung tâm y tế, trụ sở UBND xã đang xây dựng dang dở. Người dân ở xã Hữu Khuông chủ yếu là người Thái, Mông, Khơ mú. Người dân ở đây sống theo kiểu tự cung tự cấp dựa vào việc làm nương rẫy, săn thú rừng, đánh bắt cá ở khu vực lòng hồ.
Chị Ốc Thị Phương, bản Con Phen, xã Hữu Khuông chia sẻ: "Đói thì lên rẫy trồng bắp, hái cây rừng hay xuống suối bắt cá về ăn. Ở đây không có đường, muốn đi ra trung tâm huyện hay đi các bản khác phải đi lại bằng thuyền, mỗi lần thuê thuyền họ lấy nhiều tiền lắm, mình không có tiền nên từ nhỏ tới giờ không đi mô cả, chỉ ở nhà thôi".
Ông Nguyễn Trọng Hưng, Chủ tịch UBND xã Hữu Khuông, huyện Tương Dương, cho biết: "Xã Hữu Khuông có 2.442 nhân khẩu, trong đó có tới 93,7% người dân thuộc hộ nghèo. Đời sống của ngươi dân rất khó khăn, tình trạng thiếu đói diễn ra thường xuyên. Hiện ở đây người dân chúng tôi đang phải sống trong tình trạng không có điện, không thông tin liên lạc, không đường giao thông. Người dân muốn đi đâu phải thuê thuyền, mỗi lần đi tốn cả mấy trăm ngàn nên hầu hết người dân quanh năm chủ yếu sống quanh quẩn trong bản".
Khát điện cạnh nhà máy
Xã Hữu Khuông nằm trong khu vực lòng hồ thủy điện Bản Vẽ. Để nhà máy tích nước và đi vào hoạt động, người dân xã Hữu Khuông phải di dời hẳn 5 bản (Xiềng Lầm, Nhãn Nhinh, Nhãn Mông, bản Hiển, bản Muổng), nhiều diện tích đất rừng sản xuất bị nhấn chìm khi thủy điện tích nước. Hi sinh đất để làm dự án thủy điện, sống cạnh nhà máy thủy điện lớn nhất khu vực Bắc Miền Trung nhưng người dân nơi đây phải chấp nhận cảnh sống không điện.
Anh Lương Văn Thái, bản Con Phen, xã Hữu Khuông, buồn bã: "Gần chục năm trước họ lấy đất làm nhà máy thủy điện, dân bản ai cũng đồng ý, ai cũng nghĩ là nhà máy hoạt động sẽ có điện. Nhà máy hoàn thành người dân mừng lắm, ai ngờ chờ mãi cả mấy năm vẫn không có điện, người dân chúng tôi ở đây khổ lắm, quanh năm muốn có ánh sáng phải thắp đèn dầu. Giờ chỉ mong sao nhà nước sớm kéo điện để được sử dụng cho đỡ khổ".
Người dân Hữu Khuông vẫn chưa có điện để dùng.
Qua tìm hiểu của chúng tôi thì không chỉ người dân xã Hữu Khuông phải chịu cảnh "khát điện cạnh nhà máy điện" mà người dân ở các xã Nhôn Mai, Mai Sơn (huyện Tương Dương) cũng chung tình trạng trên. Điều nghịch lý là để xây dựng thủy điện Bản Vẽ, người dân xã Nhôn Mai và Mai Sơn cũng bị thu hồi một phần diện tích đất ở, đất sản xuất. "Mong muốn được sử dụng điện của người dân là rất chính đáng. Thời gian tới bên công ty điện lực, các ngành chức năng cần quan tâm đến nguyện vọng thiết thực của người dân", ông Nguyễn Trọng Hưng, Chủ tịch UBND xã Hữu Khuông (huyện Tương Dương) tâm sự.
Nói về vấn đề này, một lãnh đạo huyện Tương Dương cho biết: "Huyện cũng rất muốn đưa điện vào cho người dân sử dụng nhưng tiền để xây dựng hệ thống đường dây truyền tải điện không có, không có kinh phí nên cũng chưa biết đến bao giờ người dân mới có điện lưới sử dụng".
18 xã chưa có điện lưới sử dụng Là tỉnh có hàng loại dự án xây dựng nhà máy thủy điện, trong đó có những nhà máy lớn đã hoàn thành và đi vào hoạt động như Bản Vẽ (320MW), Hủa Na (180MW) thế nhưng tính đến tháng 10/2013 toàn tỉnh Nghệ An có 270 thôn, bản, xóm thuộc địa bàn 58 xã chưa có điện lưới quốc gia. Trong đó có 18 xã hoàn toàn chưa có điện lưới quốc gia, gồm: huyện Kỳ Sơn có 11 xã, huyện Tương Dương có 3 xã, huyện Quế Phong có 1 xã, huyện Quỳ Châu có 3 xã. Tỷ lệ người dân được sử dụng điện trên toàn tỉnh đạt khoảng 90%.
Nguyễn Duy - Ngọc Hiếu
Theo Dantri
"Ốc đảo" 14 năm không đám cưới Nhiều năm nay, việc đi lại của gần 600 nhân khẩu tại thôn Hồng Lam, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh vẫn trong cảnh "lụy đò". Giao thông trắc trở, kéo theo kinh tế khó khăn, khiến thanh niên làng lớn lên đều bỏ đi làm ăn xa, 14 năm nay, làng không có một đám cưới nào. Ốc đảo...