Ngỡ ngàng làng chiếu trăm năm được UNESCO vinh danh
Ở vùng sông nước miền Tây, nhắc đến làng nghề trăm năm thì khó ai quên được làng chiếu Định Yên (huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) nức tiếng xa gần.
Nằm nép mình bên dòng sông Hậu hiền hòa và thơ mộng, xã Định Yên (huyện Lấp Vò) không chỉ nức tiếng với nghề dệt chiếu truyền thống mà còn in đậm trong tâm thức nhiều người bởi vẻ đẹp quyến rũ đa sắc màu của những chiếc chiếu được làm từ lác nước. Tuy mộc mạc, bình dị nhưng những chiếc chiếu nhiều hoa văn này đã tạo nên vẻ đẹp thanh tao, làm cuốn hút người phương xa.
Lác được cắt ngoài đồng rồi vận chuyển về nhà
Những cọng lác đủ màu sắc được đem phơi
Dưới cái nắng đổ lửa giữa tháng 3, những bó lác mới nhuộm được xếp thành hàng dài phơi dọc 2 bên đường như những cánh bướm sặc sỡ trải khắp các con đường vào làng chiếu. Sắc xanh – đỏ – tím – vàng của những bó lác luôn tạo ấn tượng đầu tiên cho những người phương xa khi lần đầu đặt chân đến vùng đất này.
Video đang HOT
Nhuộm lác trước khi mang đi phơi
Làng chiếu Định Yên được hình thành cách đây hàng trăm năm, tập trung chủ yếu ở 2 xã Định An và Định Yên, nơi mà gần 80% hộ dân theo nghề làm chiếu.
Là đời thứ tư nối nghiệp nghề dệt chiếu của gia đình, chị Võ Thị Kiều Diễm (ngụ ấp An Lợi B, xã Định An) đang miệt mài bên khung dệt, khẩn trương các bước cuối cùng để cho ra đời một chiếc chiếu đẹp mắt. Chị Diễm tay thoăn thoắt xỏ từng sợ lác, vui vẻ chia sẻ về lịch sử hình thành nghề và các công đoạn để hoàn thành một chiếc chiếu Định Yên nức tiếng.
Những người thợ miệt mài bên khung dệt
Theo đó, trước tiên là chọn sợi lác về nhuộm phẩm với đủ loại màu sắc. Để màu nhuộm chính xác, khó phai ít nhất phải nhuộm 2 đến 3 lần trở lên. Nhuộm xong thì đem phơi cho đủ nắng. Nếu phơi dưới cái nắng quá gắt thì lác dễ bị giòn, gãy; còn phơi dưới nắng dịu thì sợi lác sẽ bị ẩm, mốc.
Rời nhà chị Diễm, chúng tôi đến thăm gia đình ông Huỳnh Văn Chiến (76 tuổi; ngụ ấp An Khương, xã Định Yên). Với hơn 50 năm trong nghề, cụ Chiến cho biết hiện gia đình vẫn sử dụng khung dệt chiếu bằng tay, mỗi ngày chỉ dệt được khoảng 2 đôi chiếu, với giá bán 95.000 đồng/đôi, trừ chi phí còn lời được 70.000 đống – khoản thu nhập còn quá khiêm tốn.
Vợ chồng ông Chiến bên khung dệt bằng tay
“Hiện nay, đa số các hộ dân trong nghề đều đã trang bị máy dệt nên năng suất cao hơn rất nhiều so với khung dệt bằng tay. Tuy nhiên, trước xu thế công nghiệp hóa ngày càng cao, nên chúng tôi muốn giữ lại nét truyền thống dệt bằng tay mà cha ông đã truyền lại, dù thu nhập thấp hơn máy” – cụ Chiến chia sẻ.
Làng nghề dệt chiếu truyền thống Định Yên đã tồn tại hàng trăm năm
Rời làng chiếu Định Yên, bên tai tôi vẫn văng vẳng câu hát: “Hò ơi! Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm/Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu…” trong bài “Tình anh bán chiếu” của cố soạn giả Viễn Châu viết về chiếu Cà Mau nổi tiếng, nhưng hình như đó cũng là nỗi lòng của những người thợ dệt ở làng chiếu Định Yên, Định An.
Năm 2013, nghề dệt chiếu thủ công truyền thống ở Định Yên và Định An được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn của nghề làm chiếu trăm năm này, ông Nguyễn Văn Sang – Phó Chủ tịch UBND xã Định Yên – cho biết những năm trước đây, mặt hàng chiếu được sản xuất ở xã bán rất chạy, đặc biệt là xuất khẩu sang thị trường Campuchia, nên người dân phấn khởi sản xuất. Thế nhưng, kể từ thời điểm dịch bệnh Covid-19 bùng phát thì mặt hàng này ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.
“Tới đây, việc kiểm soát và khống chế dịch bệnh trở lại bình thường thì mặt hàng này sẽ tiếp tục vươn xa hơn nữa. Chúng tôi sẽ đề xuất lên huyện và tỉnh để có chính sách hỗ trợ làng nghề trong thời điểm gặp khó khăn, đặc biệt là những hộ nghèo không có khả năng mua máy dệt, còn sử dụng khung dệt thủ công bằng tay. Khuyến khích một số hộ dệt chiếu thủ công, nhằm lưu giữ lại truyền thống quý báu của nghề dệt chiếu có từ lâu đời gắn với phát triển ngành du lịch tại địa phương và quảng bá thương hiệu làng chiếu Định Yên” – ông Sang nói.
Làng nghề đánh bắt hải sản trên lưng ngựa
Hiện làng nghề đánh bắt ven bờ này chỉ còn 17 người nối nghiệp, mặc dù nó đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.
Đó là làng nghề đánh bắt Oostduinkerke ở tỉnh Tây Flanders, nước Bỉ. Đúng như đã hẹn, nữ ngư dân 37 tuổi Nele Bekaert thúc con ngựa kéo Brabant nặng tới một tấn của mình tên là Axel rồi thắng chiếc yên gỗ kiểu cũ vào lưng ngựa và sau cột chặt vào cỗ xe có gắn bộ dụng cụ đánh bắt kiểu giã cào ở phía sau, cả hai chúng tôi tiến ra bãi biển.
Các ngư dân làng nghề truyền thống Oostduinkerke đang hành nghề đánh bắt hải sản ven bờ.
Đợi cho tới khi thủy triều rút xuống, chú ngựa Axel bắt đầu lê bước trên bãi cát cách bờ chừng 1km để chuẩn bị cho chuyến đánh bắt. Bekaert thì xỏ chân vào đôi ủng cao su chống nước cao tới đùi rồi bắt đầu mở chốt cỗ xe kéo để tấm lưới kéo hình phễu lớn buông xuống biển.
Mẻ đánh bắt chính thức bắt đầu, có lúc Bekaert phải hối con chiến mã 23 tuổi lội ra những đoạn sâu tới đùi giữa vùng nước lạnh giá của Biển Bắc- giống như những ngư dân Flemish trong cộng đồng nhỏ bé này đã từng hành nghề trong suốt hơn 500 năm qua.
Ngư dân làng Oostduinkerke đánh bắt hải sản bằng ngựa Brabant. Nguồn: BBC
Nghề đánh bắt hải sản ven bờ bằng giống ngựa Brabant bản địa như thế này từng được những ngư dân trên bờ Biển Bắc từ Pháp đến Đức và cả miền nam nước Anh coi là sinh kế sống còn. Tuy nhiên cho đến ngày nay nó đã mai một gần hết và chỉ còn lại đúng 17 người ở ngôi làng Oostduinkerke thuộc cộng đồng Flemish, gồm 8.500 người ở miền duyên hải phía tây bắc của nước Bỉ, tiếp tục nối nghề truyền thống này dù nó đã được Unesco công nhận là làng di sản.
Theo chức sắc địa phương, mặc dù việc phụ nữ tham gia nghề đánh bắt tôm bằng lưới kéo tay đã từng phổ biến ở khắp vùng duyên hải Biển Bắc, nhưng họ không được khuyến khích làm điều này trên lưng ngựa vì đó được coi là "công việc của cánh đàn ông".
Ngư dân làng Oostduinkerke huấn luyện những con ngựa Brabant kéo xe đi đánh bắt.
Tuy nhiên kể từ khi nghề độc đáo này được Unesco vinh danh vào năm 2013 thì nhiều nỗ lực bảo tồn và phát triển đã được khơi dậy và phụ nữ cũng tham gia bởi vì Unesco cho rằng, bất kỳ hoạt động nào nằm trong danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đều phải mang lại cơ hội bình đẳng cho tất cả các giới.
Vì vậy vào năm 2015 sau khi Bekaert hoàn thành hai năm học nghề, bà mẹ ba con này đã gia nhập đội ngũ đánh bắt với tư cách là người phụ nữ đầu tiên trong số những ngư dân của làng Oostduinkerke. Và giờ đây, cô đã thành thục đánh bắt trên lưng ngựa cùng những người đàn ông ba mùa một năm, chưa kể còn tham gia các sự kiện diễu hành lê hội du lịch mùa hè để quảng bá nghề cổ xưa của làng.
Nỗ lực lưu giữ nghề truyền thống
Nguyên lý đánh bắt của nghề này là khi cỗ xe ngựa lội song song với đường bờ biển thì hai gọng lưới bị sức kéo mở buông ra và kéo lê trên cát để tạo ra "sóng xung kích", khiến tôm cua nhảy vào sau đó áp lực nước đẩy dồn chúng xuống túi lưới phía sau.
Không chỉ đàn ông, ngày nay phụ nữ cũng được tham gia nghề đòi hỏi nhiều kỹ năng trên biển này.
Cứ sau mỗi mẻ chừng 30 phút, Bekaert lại thúc cỗ xe ngựa vào bờ thu hoạch và phân loại từng "chiến lợi phẩm" vừa đánh bắt được. Cô cẩn thận lặt riêng từng loại, loại nhỏ thì thả trở lại biển, con nào ngã yếu thì làm mồi cho hải âu và chỉ giữ lại những con đã trưởng thành sử dụng...
Bekaert cho biết, cô cũng đang truyền dạy lại nghề đánh bắt cổ này cho ông xã và cậu con trai 12 tuổi để "gia đình gắn kết hơn" và đang ấp ủ hy vọng sẽ trở thành gia đình đầu tiên có ba thành viên theo nghề truyền thống. Thậm chí khi hai cô con gái sinh đôi 9 tuổi của họ lớn hơn chút nữa, chúng cũng sẽ được huấn luyện theo nghề của gia đình.
Ruth Pirlet, nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Thủy sản Quốc gia Navigo, nơi có hai tầng lầu lưu giữ về lịch sử nghề đánh bắt hải sản bằng ngựa truyền thống cho biết: Nghề này không chỉ đòi hỏi khả năng ngư dân cưỡi ngựa cừ khôi mà còn rành rõi cả kiến thức về biển cả, thủy triều lên xuống, bờ cát, dòng chảy, mô hình sóng và thậm chí là cả chế biến hải sản.
Theo bà Pirlet, từ thế kỷ 16 cho đến sau Thế chiến II, nghề đánh bắt tôm cua bằng ngựa đã được phổ biến trên khắp vùng Biển Bắc rộng lớn, nhưng từ khi nền kinh tế phát triển thì những nông dân- ngư dân ven biển này đã tự biến mất.
Lấy ví dụ ngay tại Bỉ, các cồn cát ven biển có nhiều hộ gia đình từng sinh sống và nuôi ngựa để kéo tôm cá như một nguồn thực phẩm và thu nhập phụ. Nhưng kể từ khi đường bờ biển phát triển, các trang trại bị dịch chuyển và ngựa cũng bị đẩy vào đất liền. Ngày nay, phương pháp đánh bắt cổ điển này đã được thay thế phần lớn bằng máy móc và tàu thuyền đánh bắt thương mại hiện đại với hiệu quả cao nhưng lại thiếu bền vững hơn.
Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh tế thì không. Theo Bekaert, hầu hết những người đánh bắt bằng ngựa đều có những công việc "thực sự" khác để trang trải các sinh hoạt đời thường của gia đình. "Nó đơn giản chỉ là một sở thích đắt tiền và là tình yêu lao động", cô nói.
Ở ngôi làng Oostduinkerke, hiện vẫn còn những bức tượng ngư dân cưỡi ngựa nằm rải rác trên bãi biển và đường phố để tôn vinh nghề truyền thống 500 năm tuổi. "Người dân sinh sống ở đây rất tự hào về nó. Những ngư dân đánh bắt bằng ngựa không những góp phần duy trì bản sắc của cộng đồng mà còn truyền cảm hứng cho các sự kiện văn hóa, lễ hội địa phương hay thu hút hàng chục ngàn du khách quốc tế thăm viếng hàng năm", bà Pirlet nói.
Các bức tượng ngư dân đánh bắt hải sản bằng ngựa Brabant được trưng bày nhiều nơi để thu hút du khách.
Các hộ dân làng nghề Oostduinkerke ngoài sở thích chung là đánh bắt thì mỗi hộ gia đình đều phụ trách từng mảng miếng riêng, chẳng hạn như đan lưới hoặc huấn luyện ngựa...
Ngày nay cứ hai lần một tuần, trừ những tháng mùa đông, những con ngựa Brabant vẫn hiên ngang lội ngược sóng biển chở theo những ngư dân và những chiếc giỏ mây đã trở thành hình ảnh có sức hút lớn đối với làng nghề.
Những ngư dân theo nghề ngoài kiến thức tốt về biển cả còn đòi hỏi tình yêu nghề và đối đãi tử tế với loài ngựa bản địa Brabant. Nghề truyền thống của làng Oostduinkerke đã mang lại cho cộng đồng dân cư một ý thức mạnh mẽ về bản sắc tập thể và đóng một vai trò, ý nghĩa quan trọng trong các sự kiện văn hóa và xã hội của địa phương...
Di sản thế giới nhìn theo chiều thẳng đứng Nếu hồ nước nóng Grand Prismatic Spring nhìn như một lăng kính tán sắc ánh sáng thành nhiều màu, thì Grand Canyon trông như bề mặt hành tinh khác. Kể từ năm 1972 UNESCO đã thực hiện các chương trình nhằm bảo tồn những công trình biểu tượng và địa danh khi được công nhận là di sản thế giới. Trang web Overview...