Nghĩa tình kết nối hai bờ biên giới – Bài 2: Ấm, lạnh có nhau
Nhân dân hai bên biên giới có mối quan hệ thân tộc lâu đời, phong tục, tập quán, lao động, canh tác có nhiều điểm tương đồng, lại có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ nhau.
Đây chính là cơ sở để triển khai mô hình “Kết nghĩa Bản – Bản” ở khu vực biên giới Việt Nam – Lào tại Quảng Trị vào năm 2007 và sau đó nhân rộng trên toàn tuyến.
Anh Giàng Lao Xang, Trưởng bản Nà Khạng, huyện Xiengkhor, tỉnh Houaphanh, Lào (ngồi giữa) và anh Tráng Lao Khai, Trưởng bản Lao khô I, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La (ngoài cùng bên trái) trò chuyện với Bộ đội Biên phòng Sơn La và Công an huyện Xiengkhor, Houaphanh, Lào. Ảnh: Hạnh Quỳnh/TTXVN
Kể từ hẹn ước “ấm, lạnh có nhau”, nhân dân hai bên càng gắn kết. Không chỉ hợp tác, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, họ còn cùng nhau bảo vệ đường biên, mốc giới. Ý thức tôn trọng pháp luật, nhận thức về các hiệp định, hiệp nghị, quy định pháp luật của hai Nhà nước trong nhân dân cũng vì thế mà nâng lên rõ rệt.
Gắn kết hai miền đất
Bản Nà Khạng, cụm bản Phiêng Sa, huyện Xiengkhor, tỉnh Houaphanh, Lào những ngày cuối tháng Tám. Nang Dính Giàng, 27 tuổi, đứng trước kệ để hàng tạp hóa. Ngôi nhà, đồng thời là cửa hàng của người phụ nữ Lào này hầu như đủ các sản phẩm tiêu dùng, từ gạo, muối, mì tôm, xà phòng, dầu gội đến những mặt hàng nhỏ như viên pin, bàn chải đánh răng, khăn mặt, băng dính… để cung cấp cho người dân Nà Khạng. Dân bản cũng thường tới đây vì cửa hàng có nhiều sản phẩm của Việt Nam, giá thành rẻ, lại gần nhà.
“Mình thường sang bản Lao Khô I, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu để lấy hàng về bán bởi người bản mình rất thích hàng hóa của Việt Nam. Bên đó người bán hàng rất thân thiện, khi quen biết nhau thì sẵn sàng cho nợ tiền đến cuối tháng mới thanh toán cả thể”, Nang Dính Giàng bộc bạch.
Theo chia sẻ của Nang Dính Giàng, sự thân thiện của người dân bên biên giới Việt Nam mà chị cảm nhận, không chỉ trong buôn bán làm ăn. Hơn hai năm qua, khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sinh hoạt thì Nang Dính Giàng và dân bản Nà Khạng được rất nhiều người bên Lao Khô I cũng như huyện Yên Châu điện thoại thăm hỏi, trao đổi hàng ngày. Bộ đội Biên phòng Việt Nam còn gửi vật tư y tế, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm, con giống, cây giống giúp người dân Nà Khạng.
Video đang HOT
“Đợt dịch vừa rồi dân bản mình phải nhờ người bên Việt Nam hỗ trợ nhiều lắm. Nếu không có họ giúp đỡ, chắc cuộc sống của bản mình sẽ rất thiếu thốn”, Nang Dính Giàng kể.
Vui vẻ nói về sự thân thiện của người dân hai bản hai bên biên giới, anh Giàng Lao Xang, Trưởng bản Nà Khạng cho hay: Người dân hai bản Lao Khô 1 và Nà Khạng có tình cảm, truyền thống giúp đỡ nhau. Cũng vì thế, năm 2013, chính quyền đã tổ chức kết nghĩa giữa hai bản. Việc này càng làm nhân dân hai bản gắn bó. Bà con thường giao lưu, thăm hỏi rồi bày nhau kinh nghiệm hay trong cách làm ăn, nâng cao đời sống cũng như ý thức về chính sách, pháp luật, tham gia giữ gìn an ninh trật tự hai bên biên giới.
Dân bản rất vui vì biết Nà Khạng cần giúp đỡ gì thì các bạn Việt Nam đều tận tình hỗ trợ. Như dịch COVID-19 vừa qua làm dân bản Nà Khạng gặp nhiều khó khăn về nhu yếu phẩm, họ đã tìm cách giúp đỡ. Họ còn vào bản hướng dẫn bà con trồng cây mận hậu, giúp đỡ từ cây giống đến cách chăm sóc. Số cây trồng mà các bạn Việt Nam hỗ trợ phát triển tốt, mang lại lợi ích kinh tế.
“Đời sống của bà con dân bản khấm khá hơn nhiều. Hiện nay không còn tình trạng xâm canh, xâm cư, bỏ ruộng nương, xuất cảnh trái phép qua biên giới đi lao động nữa”- anh Giàng Lao Xang phấn khởi nói.
Đại úy Samsoiuk Saeangchanphet, Trạm trưởng Trạm Công an Nà Khạng (Công an Lào). Ảnh: Hạnh Quỳnh/TTXVN
Xác nhận lời nói của người Trưởng bản, Đại úy Samsoiuk Saeangchanphet, Trạm trưởng trạm Nà Khạng (Công an huyện Xiengkhor, Lào) và Trạm trưởng Xôm Say Xỉ Nuôn Thong, Trạm Biên phòng Thẳm Me (Đại đội Biên phòng 213, Bộ đội Biên phòng Lào) đều khẳng định, kể từ khi kết nghĩa, nhân dân hai bên biên giới càng thể hiện tình cảm gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau. Họ tích cực tham gia bảo vệ đường biên, cột mốc, thực hiện nghiêm Quy chế biên giới, quy định pháp luật của mỗi nước…
“Kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới đang góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình an ninh trật tự, thắt chặt tình đoàn kết giữa các lực lượng ở biên giới và nhân dân hai nước Lào – Việt Nam nói chung. Các đơn vị bên phía Lào thường xuyên phối hợp với lực lượng phía Việt Nam tuần tra kiểm soát, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật tại khu vực biên giới.
Nền tảng phát triển nơi biên viễn
Thông tin về câu chuyện “ghép đôi vùng biên giới”, ông Tráng Lao Khai, Trưởng bản Lao Khô 1 vui vẻ kể: Trước khi kết nghĩa, người dân bản Lao Khô 1 và bản Nà Khạng vốn đã xem nhau là anh em. Hai bản đều có đông đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Trong những năm tháng Việt – Lào liên minh chiến đấu chống thực dân Pháp, ở đây có gia đình ông Tráng Lao Khô đã cưu mang, giúp đỡ ông Kaysone Phomvihane, cố Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào xây dựng tổ chức cơ sở hoạt động cách mạng. Ghi nhớ sự kiện lịch sử này, năm 2012, tại đây tỉnh Sơn La đã xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam – Lào.
“Hiện nay, bản Lao Khô 1 và Phiêng Khoài được coi là “thủ phủ” mận hậu của huyện Yên Châu, giúp người dân thoát nghèo bền vững. Từ mối quan hệ truyền thống hữu nghị tốt đẹp năm xưa, rất nhiều bà con bên Lào, trong đó có bản Nà Khạng đã sang tham quan, tìm hiểu lịch sử, đồng thời cũng nhờ giúp trồng cây mận hậu. Tôi và bà con trong bản Lao Khô 1 đã hướng dẫn, giúp đỡ các bạn Lào từ cây giống đến cách chăm sóc. Các bạn bên kia có cái gì khó khăn thì bản Lao Khô đều sang hỗ trợ”, ông Tráng Lao Khai chia sẻ.
Đại tá Vũ Đức Tú, Phó Chính ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La. Ảnh: Hạnh Quỳnh/TTXVN
Trao đổi về “kết nghĩa Bản – Bản”, Đại tá Vũ Đức Tú, Phó Chính ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La cho hay: Các dân tộc Việt Nam – Lào hai bên biên giới đều có mối quan hệ thân tộc, dòng tộc gắn bó với nhau từ lâu đời. Đây cũng được xem là tuyến biên giới tiêu biểu cho mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Thời gian qua, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương triển khai thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng, Nhà nước về công tác đối ngoại, đảm bảo giữ gìn an ninh biên giới.
Lực lượng Bộ đội Biên phòng Sơn La có nhiều hoạt động ý nghĩa, thiết thực, góp phần vun đắp tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, điển hình là hiệu quả của mô hình “Kết nghĩa Bản – Bản”.
Bộ đội Biên phòng Sơn La được giao nhiệm vụ quản lí, bảo vệ 250 km đường biên giới, tiếp giáp với các tỉnh Louangphabang, Houaphanh của Lào. Đây là khu vực rộng lớn với hai cửa khẩu phụ. Hoạt động giao lưu, hợp tác, làm ăn, phát triển kinh tế, sản xuất, trao đổi hàng hóa giữa hai bên có tiềm năng rất lớn. Theo thống kê sơ bộ của Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La, trước khi dịch COVID-19 xảy ra, mỗi năm có trên 500.000 tấn nông sản hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giữa Sơn La và các tỉnh của Lào. Trong đó, Sơn La chủ yếu cung cấp cho bạn hạt giống, cây trồng, vật nuôi, phân bón cùng nhiều hàng hóa khác. Còn hàng từ Lào sang chủ yếu là nông sản như ngô, thóc, cà phê, chanh leo, nhãn.
“Hiện nay, dịch COVID-19 đã cơ bản được khống chế, nhu cầu thiết yếu về giao lưu, hợp tác, thông thương hàng hóa giữa hai bên rất lớn. Đây chính là cơ sở góp phần thúc đẩy nâng cao đời sống, phát triển kinh tế bền vững giữa các địa phương, nhân dân hai bên biên giới”- Đại tá Vũ Đức Tú nhấn mạnh.
Tỉnh Hà Giang đề xuất nâng cấp Quốc lộ 4 nối Hà Giang - Lào Cai
Thông tin từ Bộ Giao thông Vận tải cho biết vừa nhận được công văn của UBND tỉnh Hà Giang đề nghị đầu tư thông tuyến và hoàn thành đồng bộ dự án đầu tư nâng cấp Quốc lộ 4 đoạn nối Hà Giang - Lào Cai.
Theo đó, văn bản số 4335/UBND-KTTH do Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Văn Sơn gửi Bộ Giao thông Vận tải nêu rõ: Dự án đầu tư, nâng cấp Quốc lộ 4 đoạn nối Hà Giang - Lào Cai có tổng chiều dài khoảng 220 km đi qua địa bàn các huyện, xã đặc biệt khó khăn thuộc tỉnh Hà Giang và Lào Cai.
Dự án được triển khai từ tháng 3/2008, dự kiến hoàn thành trong năm 2013. Từ khi khởi công, đoạn qua địa bàn tỉnh Lào Cai dài 98km đã được thi công và hoàn thành năm 2015; đoạn tuyến qua địa bàn tỉnh Hà Giang dài 122km đến hết năm 2020 mới được đầu tư, hoàn thành được 45km.
"Thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ, từ tháng 3/2011 đến nay toàn bộ dự án tạm dừng thực hiện; hiện dự án còn khoảng 77km chưa được đầu tư, đặc biệt đoạn qua đèo Tây Côn Lĩnh dài 21km chưa được đầu tư để thông tuyến", văn bản số 4335 cho hay.
Theo đánh giá của UBND tỉnh Hà Giang, Quốc lộ 4 thuộc hệ thống đường vành đai biên giới (vành đai 1) được quy hoạch là tuyến quốc lộ chính yếu của khu vực phía Bắc (vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050), có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về an ninh quốc phòng ...
Mặt khác, phía Trung Quốc đã đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông với quy mô rất lớn. Vì vậy với tính liên kết các vùng phát triển kinh tế trong khu vực, Quốc lộ 4 khi được đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác sẽ thúc đẩy việc phát triển kinh tế biên mậu, giao thường hàng hóa khu vực biên giới, góp phần xóa đói, giảm nghèo...
Do đó, UBND tỉnh Hà Giang cho rằng việc đầu tư xây dựng thông tuyến và đồng bộ toàn tuyến Quốc lộ 4 hiện nay là cần thiết và cấp bách. Vì vậy, UBND tỉnh Hà Giang đề nghị Bộ Giao thông Vận tải, các bộ, ngành liên quan xem xét bố trí vốn đầu tư trung hạn giai đoạn 2021-2025 để đầu tư thông tuyến và hoàn thành đồng bộ đoạn Quốc lộ 4 trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Trao đổi với phóng viên TTXVN, đại diện UBND huyện Hoàng Su Phì - địa phương có tuyến Quốc lộ 4 đi qua cho hay, là một trong những huyện khó khăn nhất của Hà Giang và của cả nước, nơi các dự án giao thông chưa được hoàn thiện dẫn đến kinh tế của địa phương rất khó khăn. Mặc dù Bộ Giao thông Vận tải đã hoàn thành giai đoạn 1 của Quốc lộ 4 đoạn đoạn Km 339-Km 368 qua địa bàn huyện nhưng chưa phát huy hết ý nghĩa của tuyến đường.
"Vì vậy, chúng tôi đề nghị cần triển khai tiếp giai đoạn 2 của dự án để kết nối đồng bộ từ huyện Hoàng Su Phì lên được cửa khẩu Thanh Thủy qua đèo Tây Côn Lĩnh sang Trung Quốc dài khoảng 24 km. Khi đó mới phát huy được toàn bộ ý nghĩa kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của dự án", đại diện UBND huyện Hoàng Su Phì cho hay.
Theo lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải, trong danh mục các dự án đề xuất nguồn vốn từ gói kích cầu kinh tế thuộc Chương trình phục hồi kinh tế bền vững đến năm 2023 mà Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể vừa ký gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có đề xuất vốn để đầu tư hoàn thiện Quốc lộ 4 (Dự án đầu tư, nâng cấp đường nối Quốc lộ 4C và Quốc lộ 4D đoạn Km296 (tránh thị trấn Cốc Pài) và đoạn Km368-Km388 thuộc địa bàn tỉnh Hà Giang)...
Nhân Ngày quốc tế xóa nghèo 17/10: Vượt lên những thách thức Xóa đói, giảm nghèo là quyết tâm của Việt Nam suốt chặng đường 76 năm qua, đặc biệt là sau hơn ba thập kỷ đổi mới. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm dần theo từng năm nhưng công cuộc giảm nghèo vẫn trăn trở với nhiều thách thức lớn, nhất là từ những...