Nghĩa địa x.ác ư.ớp chim cánh cụt dưới băng Nam Cực
Các nhà nghiên cứu tìm thấy nhiều x.ác ư.ớp chim cánh cụt được bảo quản nguyên vẹn trong suốt 800 năm và chỉ phát lộ khi tuyết tan gần đây.
Xác chim cánh cụt non 800 năm t.uổi trên đảo Ross. Ảnh: Steven Emslie.
Nhà nghiên cứu Steven Emslie tìm thấy cả x.ác c.hết cổ đại và xác trông còn mới của chim cánh cụt Adelie ở Irizar, mỏm đá nằm phía nam sông băng Drygalski Ice Tongue thuộc vùng ven biển của đảo Scott trên biển Ross. Phần lớn x.ác c.hết là chim non, c.hết thường xuyên và tích tụ dần ở các đàn. Tuy nhiên, những x.ác c.hết còn mới khiến Emslie bối rối bởi không có ghi chép nào về đàn chim cánh cụt sinh sống ở khu vực này từ khi những nhà thám hiểm đầu tiên (Robert Falcon Scott) tới biển Ross vào năm 1901-1903.
Video đang HOT
Emslie nhận thấy lượng lớn xương chim non nằm rải rác trên mặt đất cùng với vết phân chim, chứng tỏ khu vực này gần đây từng có sự sống, nhưng điều đó không thể xảy ra. Một số xương đến từ xác chim non hoàn chỉnh còn lông bị p.hân h.ủy bênh cạnh những x.ác ư.ớp hoàn chỉnh. Emslie và đồng nghiệp thu thập một số xác chim trên mặt đất để phân tích kỹ hơn và xác định niên đại bằng đồng vị carbon. Họ công bố kết quả nghiên cứu hôm 18/9 trên tạp chí Ecology.
Nhóm nghiên cứu tìm thấy nhiều ụ sỏi cũ nằm rải rác quanh mỏm đá. Những ụ đất này là các địa điểm làm tổ trước đây của chim cánh cụt Adelie bởi chúng sử dụng sỏi để xây tổ. Khi khu vực bị bỏ hoang, các hòn sỏi sẽ phân tán và rất dễ nhận biết do có cùng kích thước.
“Chúng tôi khai quật 3 trong số các ụ đất, sử dụng phương pháp tương tự những nhà khảo cổ, nhằm thu thập phần mô của chim cánh cụt, xương, lông và vỏ trứng, cũng như phần cứng của con mồi trong phân (xương cá)”, Emslie cho biết.
Kết quả phân tích cho thấy ít nhất 3 giai đoạn mỏm đá này là nơi sinh sản của chim cánh cụt. Thời kỳ cuối cùng kết thúc vào khoảng 800 năm trước. Khi đó, do lượng tuyết bao phủ dày lên hoặc vì nhiều yếu tố khác, xác chim mới c.hết bị vùi dưới băng tuyết và được bảo quản nguyên vẹn, chỉ lộ ra khi tuyết tan gần đây.
Hiện tượng ấm lên toàn cầu khiến nhiệt độ hàng năm ở biển Ross tăng 1,5 – 2,0 độ C từ thập niên 1980. Ảnh vệ tinh trong thập niên vừa qua cho thấy mỏm đá đang dần nhô lên từ dưới lớp tuyết.
X.ác ư.ớp giám mục hé lộ nguồn gốc bệnh lao
Dấu vết trong phổi của một giám mục ở thế kỷ 17 giúp các nhà nghiên cứu phát hiện bệnh lao xuất hiện vào thời Đồ Đá mới.
X.ác ư.ớp giám mục Peder Winstrup. Ảnh: Wikipedia.
Khi nhà nhân chủng học Caroline Arcini và đồng nghiệp ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Thụy Điển phát hiện những nốt vôi hóa nhỏ trong lá phổi được bảo quản nguyên vẹn của giám mục Peder Winstrup, họ nghi ngờ đó là dấu vết của một dạng bệnh viêm phổi và bệnh lao xếp đầu tiên trong danh sách suy đoán của họ. Các nhà nghiên cứu quyết định phân tích ADN để xác nhận.
Khoảng 1/4 dân số thế giới được cho là từng tiếp xúc với vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis complex gây bệnh lao (TB). Giám mục Winstrup là một trong nhiều người đổ bệnh khi đại dịch lao xuất hiện ở châu Âu sau thời Trung Cổ. Ngày nay, bệnh lao là một trong những căn bệnh phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ t.ử v.ong cao nhất do nhiễm khuẩn.
Sự phân bố trên toàn cầu của bệnh lao dẫn tới giả định phổ biến cho rằng mầm bệnh này đã tiến hóa từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và lan rộng khắp thế giới thông qua những cuộc di cư của con người cách đây hàng chục nghìn năm. Năm 2014, nhóm nghiên cứu ở Đại học Tbingen, Đức và Đại học Arizona, Mỹ, phục dựng 3 hệ gene bệnh lao cổ đại từ Nam Mỹ. Kết quả so sánh với nhiều chủng lao ở người cho thấy bệnh lao xuất hiện trong vòng 6.000 năm qua. Ước tính mới này gây hoài nghi trong cộng đồng nghiên cứu do dựa hoàn toàn vào hệ gene cổ đại không đại diện cho chủng lao gắn liền với con người ngày nay.
"Việc phát hiện nốt vôi hóa ở phổi của giám mục mang đến cho chúng tôi cơ hội để xem xét lại câu hỏi về nguồn gốc của bệnh lao bằng dữ liệu từ châu Âu thời xưa", chuyên gia Bệnh học Phân tử ở Viện Khoa học Lịch sử Nhân loại Max Planck (MPI-SHH), đồng tác giả nghiên cứu cho biết. "Nếu chúng tôi có thể phục dựng hệ gene bệnh lao từ giám mục Winstrup, đó sẽ là bằng chứng tin cậy cho ước tính về niên đại của bệnh lao".
Trong nghiên cứu công bố hôm 10/8 trên tạp chí Genome Biology, các nhà khoa học phục dựng hệ gene bệnh lao từ nốt vôi hóa ở x.ác ư.ớp của giám mục Winstrup. Theo Bos, hệ gene này có chất lượng tốt đến mức vô cùng hiếm gặp ở ADN cổ đại. Cùng với nhiều hệ gene bệnh lao từ các công trình nghiên cứu khác, nhóm của Arcini và Bos tìm hiểu niên đại của vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis complex. Sử dụng nhiều mô hình tính độ t.uổi phân tử, họ nhận thấy mọi kết quả đều chỉ ra loại vi khuẩn này có độ t.uổi tương đối trẻ. Đây là bằng chứng thuyết phục nhất chứng minh bệnh lao xuất hiện từ thời Đồ Đá mới.
Xác tàu buôn thế kỷ 17 bảo quản nguyên vẹn dưới biển Baltic Các thợ lặn đã phát hiện xác con tàu buôn trong tình trạng tốt từ thế kỷ 17 ở vùng biển Baltic. Xác tàu buôn thế kỷ 17 bảo quản nguyên vẹn dưới biển Baltic Đội thợ lặn Badewanne của Phần Lan đang trong quá trình tìm kiếm xác tàu tại cửa vịnh Phần Lan thì phát hiện con tàu đồ sộ có...