Nghề vớt “vàng trắng” trên biển
Nhờ nghề đi đánh bắt sứa, nhiều hộ dân xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa không chỉ thoát được nghèo mà đã trở thành triệu phú với thu nhập hàng trăm triệu mỗi năm. Ngư dân ở vùng biển này gọi nghề đi đánh bắt sứa là mùa vớt “vàng trắng” trên biển.
Đổi đời nhờ “vàng trắng”
Sứa là loại hải sản có thân mềm, màu trong suốt, sinh sản rất nhanh… Những năm gần đây, nhu cầu dùng sứa làm món ăn hàng ngày của người dân tăng cao nên nghề khai thác, chế biến sứa trở thành nghề cho thu nhập cao mỗi khi vào vụ chính. Nghề đánh bắt sứa diễn ra từ tháng Giêng đến gần hết tháng Tư Âm lịch. Năm nào cũng vậy, cứ ăn Tết Nguyên Đán xong ngư dân xã Hoằng Trường lại chuẩn bị bè máy, ngư lưới cụ và các nhu yếu phẩm cho chuyến vươn khơi ra vùng biển đảo ở tỉnh Quảng Ninh để đánh bắt sứa.
Nghề đi đánh bắt sứa trên biển của ngư dân xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Ông Lê Văn Mùi, thôn Thành Xuân, xã Hoằng Trường chia sẻ, nghề đi đánh bắt sứa nở rộ ở địa phương khoảng 5 năm trở lại đây. Nhu cầu dùng sứa tăng cao, ở vùng biển địa phương sứa dần khan hiếm nên ngư dân phải đầu tư bè mảng và máy công suất lớn để ra các hòn đảo như Cô Tô, Cát Bà (Quảng Ninh) khai thác. Nghề này cho thu nhập cao hơn đi đánh bắt cá và các loại hải sản khác nên có nhiều ngư dân theo nghề.
Thu nhập cao từ sứa, ngư dân gọi đây là nghề vớt “vàng trắng” trên biển
Hai vụ sứa những năm trước, gia đình ông Mùi là một trong những hộ có thu nhập cao trong xã nhờ nghề đánh bắt sứa. Trong thời gian khoảng 3 tháng đi khai thác, trừ chi phí và tiền thuê nhân công, mỗi vụ gia đình ông Mùi cũng dư ra được hàng trăm triệu đồng. Chỉ mới ba vụ sứa (mỗi năm một vụ) gần đây, cuộc sống của gia đình ông Mùi đã đổi thay hơn trước rất nhiều. Ngoài có tiền sắm bè mảng, ngư lưới cụ hiện đại, số tiền thu nhập từ sứa có được gia đình ông còn mua thêm được đất, xây được căn nhà mới kiên cố thoát được cảnh nghèo, không còn “chạy” ăn từng bữa như những năm trước.
Không chỉ gia đình ông Mùi mà hàng trăm hộ gia đình ở xã Hoằng Trường đi đánh bắt sứa cũng có thu nhập chẳng kém. Nhà nhà sắm xe máy, mua ti vi, các đồ dùng sinh hoạt có giá trị khác trong gia đình. Vụ sứa năm nay gia đình anh Lê Văn Quang, (35 tuổi, trú tại thôn Thành Xuân) thu được gần 200 triệu đồng.
Anh Quang cho hay: “Sứa ở khu vực biển ngoài đảo rất nhiều, bình thường một ngày chúng tôi thả lưới hai lần được khoảng gần 1.000 con sứa to nhỏ khác nhau. Với giá sứa từ 10 – 15 nghìn đồng/con, mỗi ngày một bè cũng thu nhập được từ 5 – 10 triệu đồng. Ngày nào sức khỏe tốt thả lưới được nhiều lần thì thu nhập cao hơn”.
Mỗi vụ đánh bắt, một hộ gia đình thu nhập trăm triệu đồng từ bán sứa
Anh Quang cho biết thêm, vụ sứa năm trước bè của gia đình anh thu nhập được gần 300 triệu. Nhờ vào vụ sứa mà gia đình anh đã xây được nhà kiên cố, có tiền sắm các vật dụng hiện đại trong gia đình và đặc biệt là không còn lo nhiều cho việc nuôi 3 đứa con ăn học. Có tiền tiết kiệm, gia đình anh cũng không còn phải phụ thuộc vào biển và thời tiết như trước.
So với các mùa đánh bắt khác trong năm, thì mùa sứa có thu nhập cao nhất. Ngày nào ít cũng kiếm được vài ba triệu, còn ngày nhiều sứa có thể lên đến hàng chục triệu. Mỗi một vụ sứa mỗi hộ gia đình lại có cả trăm triệu bỏ túi, vì thế mà ngư dân nơi đây mới gọi nghề đi khai thác đánh bắt sứa trên biển là nghề vớt “vàng trắng”.
Gian nan với nghề
Mỗi năm vụ sứa chỉ đánh bắt khoảng 3 tháng, đây là mùa thu nhập chính cũng là nghề vất vả nhất trong năm của ngư dân. Hàng trăm ngư dân trên các bè tham gia đánh bắt sứa phải ăn ở, sinh hoạt trên những chiếc bè nhỏ, xa đất liền và gia đình với vô vàn khó khăn thiếu thốn. Không có điện, thiếu nước sạch, lương thực và các nhu yếu phẩm phục vụ cuộc sống thường ngày.
Ăn uống, sinh hoạt chật chội trên chiếc bè nhỏ chưa đầy 10m2
Mọi sinh hoạt của ngư dân chỉ quanh quẩn trên chiếc bè nhỏ chưa đầy 10m2. Trên chiếc bè ấy, ngoài ngư lưới cụ phục vụ cho đánh bắt sứa còn có đồ dùng sinh hoạt cá nhân và chiếc chõng tre rộng khoảng 1 mét vuông để làm giường ngủ. Nắng mưa đều dọi khắp mặt người. Khi ngủ, người này phải áp sát vào người kia như úp hai chiếc thìa lại với nhau mới đủ chỗ nằm.
Ngư dân Lê Văn Dương (20 tuổi) từng có 3 năm đi khai thác sứa nhẩm tính: “Mỗi ngày trên đảo của bọn em chỉ được ngủ khoảng 4 tiếng. Gọi là ngủ chứ cũng chỉ là nằm chợp mắt, nghỉ lưng chút ít cho đỡ mệt sau giờ lao động. Thường thì sau khi ăn cơm tối xong lúc 8 giờ, mọi người trên bè đi ngủ để 12 giờ đêm dậy đi thả lưới. Những ngày làm việc không biết nghỉ, ai cũng lao vào làm có khi quên ăn, quên cả giờ giấc”.
Video đang HOT
Nhọc nhằn mưu sinh không kể nắng mưa
Không có chỗ ngủ cũng chưa phải là nỗi khó khăn vất vả lớn nhất của ngư dân đi đánh bắt sứa. Cái cơ cực nhất chính là thiếu nước sạch sinh hoạt. Em Dương tâm sự tiếp: “Cứ mỗi chiều tối đi vớt sứa vào, người nhớp nháp, ngứa ngáy rất khó chịu, không có nhiều nước ngọt mọi người đều phải tắm nước mặn rồi chỉ dám dội lại một vài gàu nước ngọt cho khỏi ngứa. Nước trên đảo khan hiếm lại khó mua, việc vận chuyển nước từ trên bờ xuống bè cũng rất khó khăn. Mua được nước anh em phải dùng tiết kiệm. Người có ngứa lắm cũng phải chịu, ở vậy mãi rồi cũng thành thói quen”.
Những chiếc bè nhỏ ngư dân dùng đi đánh bắt sứa
“Việc đánh sứa cũng giống như việc đánh cá. Thả lưới xuống và chờ cho sứa dính vào lưới thì vớt lên rồi đưa vào bờ bán cho thương lái. Có những hôm sứa nhiều đến mức đếm không suể, anh em vừa thả lưới xuống đã vớt sứa lên không kịp tay. Những người đi đánh sứa dựa vào con nước để đoán định giờ di chuyển của sứa. Thông thường thì sứa di chuyển lúc trời rạng sáng nên 12 giờ đêm các ngư dân đã phải dậy chuẩn bị đi thả lưới” – Dương chia sẻ tiếp về nghề.
Công việc thả lưới được xem là nhàn hạ nhất trong các công đoạn đánh bắt sứa. Một người điều khiển bè đi chầm chậm, hai người còn lại trên bè tay cầm lưới thả nhè nhẹ xuống nước, chỉ cần để ý sao cho lưới nhà mình không chồng chéo lên nhà khác hoặc không vướng phải đá ngầm. Công việc thả lưới nhàn hạ bao nhiêu thì việc vớt sứa lại nặng nhọc bấy nhiêu. Hàng nghìn con sứa được vớt hoàn toàn thủ công bằng sức người từ dưới nước lên trên bè. Người nào có sức khỏe tốt mới vớt được sứa liên tục, người bình thường cũng chỉ vớt được khoảng 50 con là đã phải nghỉ giải lao.
Lênh đênh trên biển những mối hiểm nguy luôn rình rập các ngư phủ
“Lúc đầu khỏe thì làm nhanh, đến khi mệt thì làm chậm, cố vớt được con nào thì vớt không thì gọi bè khác sang cho hoặc thả lại cho sứa trôi về với biển để lấy lưới. Có những ngày sứa đóng lưới cả nghìn con nhưng không tài nào lấy hết. Ba bố con em vớt sứa cả chục tiếng đồng hồ, đến khi tay chân không còn cử động được nữa thì đánh bè vào bờ bán sứa” – Em Dương nói.
Bán sứa xong, cầm những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi và nước mắt trên tay, tuy mệt nhọc nhưng ai nấy đều rất vui. Thành quả cả cả ngày lao động, vật lộn với sóng gió trên biển. “Ngẫm mới thấy, chẳng có cái nghề nào có được tiền mà không phải đổ mồ hôi và công sức. Khó khăn là vậy nhưng ai cũng gắng vượt qua, biết làm sao được, cuộc sống mưu sinh mà. Cũng có người “tử nghiệp” nhưng vẫn phải làm, không bỏ được nghề…” – ông Mùi nói.
Thái Sơn
Theo Dantri
Cháu có được hưởng thừa kế đất nông nghiệp của ông bà không?
Tình huống pháp luật: Cháu có quyền được hưởng thừa kế đất nông ngiệp của ông bà để lại khi đã mất không?
Hỏi: Bố mẹ cháu lấy nhau năm 1993 là thời kỳ sau của cải cách ruộng đất, do đó chị em cháu đều không có đất nông nghiệp.Trong gia đình cháu, các bác và anh chị đều có ruộng rồi. Bây giờ ông bà của cháu đã mất rồi, vậy cháu có được thừa hưởng không hay phải chia đều cho các bác và các anh chị trong gia đình ạ?.
Chân thành cảm ơn!
Ánh Phạm
Cháu có được hưởng thừa kế đất nông nghiệp của ông bà không?
Xin tư vấn cho bạn như sau:
Theo quy định tại Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005 thì Quyền thừa kế của cá nhân: Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Tuy nhiên, trong trường hợp cá nhân chết mà không để lại di chúc thì phần di sản sẽ được chia theo pháp luật
Điều 675: Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Theo nội dung bạn gửi đến, có thể hiểu ông bà bạn chết đã không để lại di chúc. Theo quy định của pháp luật, khi người chết không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Có thể thấy, phần đất nông nghiệp của ông bà bạn đương nhiên thuộc vào di sản thừa kế do ông bà nội bạn để lại. Vì ông bà bạn chết đều không để lại di chúc nên khi có tranh chấp về di sản thừa kế thì tòa án sẽ áp dụng thừa kế theo pháp luật.
Người thừa kế theo pháp luật (Điều 676 Bộ luật dân sự 2005)
" 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Điều 677 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về thừa kế thế vị
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Như vậy, khi áp dụng diện thừa kế theo pháp luật thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;các bác của bạn thuộc hàng thừa kế thứ nhất và họ đương nhiên được hưởng phần di sản thuộc về họ.
Theo đó, bạn thuộc hàng thừa kế thứ hai. Bạn chỉ được nhận thừa kế (khi không có di chúc) một phần đất mà ông bà để lại khi hàng thứ nhất không có. Như vậy, phần đất nông nghiệp đó sẽ được chia thừa kế cho bố bạn cùng với anh, chị, em của bố bạn.
Thừa kế đất nông nghiệp cần có điều kiện gì?
Trước đây, tại Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định: Người thừa kế đất nông nghiệp phải có điều kiện như: có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích; chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai. Hiện nay, Bộ Luật dân sự năm 2005 đã xóa bỏ những quy định này và đất nông nghiệp cũng được coi là tài sản thừa kế như các lọai tài sản khác.
Luật Đất đai số: 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013:
- Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất (Điều 188 Luật Đất đai):
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.
3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.
- Trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất (Điều 191 Luật Đất đai):
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất đối với trường hợp mà pháp luật không cho phép chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất.
2. Tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
3. Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa.
4. Hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó.
Thời hiệu khởi kiện về thừa kế (Điều 645 Bộ luật dân sự 2005):
- Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Luật Gia: Đồng Xuân Thuận
Theo_Đời Sống Pháp Luật
Giám đốc Cty truyền thông cầm đầu đường dây cờ bạc cực lớn Trong 28 bị can bị công an đề nghị truy tố liên quan đến đường dây cá độ trực tuyến quy mô cực lớn qua mạng Fun88 thì đa số được xác định là giới trí thức, công chức... Liên quan đến vụ đường dây đánh bạc cực lớn qua mạng Fun88 bị cơ quan CSĐT Bộ Công an đánh sập cách đây...