Nghệ nhân tây nguyên bí ẩn và… ẩn bí mật
Đời sống tinh thần của người Tây Nguyên tưởng như rất đơn giản hoang sơ nhưng té ra nếu đi sâu tìm hiểu lại rất nhiều điều kỳ bí. Chính cái bí ẩn của thế giới tâm linh ấy khiến cho văn hóa bản địa nơi này có rất nhiều điều để nghiên cứu, khám phá. Làm sao có thể lý giải được những người dân tộc mù chữ, trông rất hiền lành chất phác thật thà kia có thể chứa trong bụng mình hàng chục cái trường ca cổ, có cái dài đến hàng chục đêm, hàng mấy chục cuốn băng theo cách tính của các nhà sưu tầm văn hóa dân gian.
Nghệ nhân Y Nul (bên trái) ở xã Ea Kênh (Krông Pak) là một trong những người thuộc nhiều sử thi Êđê trên địa bàn Dak Lak hiện nay
Mà không chỉ nhớ, họ còn diễn rất hay, một mình một sân khấu bằng chiếc chiếu là cùng, câu chuyện có bao nhiêu nhân vật thì họ có thể đóng vai bằng ấy nhân vật, cả bằng giọng hát kể và vũ đạo với đạo cụ chỉ là đống lửa và cái bức vách tường bằng le và nghệ nhân thì chỉ nằm hoặc nửa nằm nửa ngồi. Những người như thế ngày xưa thường mỗi làng chỉ một, nhưng bây giờ đang hiếm dần, thậm chí rất hiếm. Hay ngôi nhà rông, thường thì mỗi làng Tây Nguyên xưa đều có một cái, và không phải ai cũng có thể chỉ huy để làm được nhà rông. Các ông thợ mộc dưới xuôi khi được phong thợ cả là họ đã rất chuyên nghiệp, trải qua thực tiễn rất nhiều, còn nghệ nhân nhà rông, có khi cả đời họ chỉ được làm một cái. Thế mà nói theo ngôn ngữ của các kỹ sư xây dựng, các kiến trúc sư được học hành bài bản bây giờ, các ngôi nhà rông được làm xét về yếu tố kỹ thuật, chuẩn không cần chỉnh.
Nhà rông thường là được làm ở nơi cao nhất của làng, nơi gió Tây Nguyên thổi mạnh nhất, thường xuyên lồng lộng, thế mà không có các vật dụng hiện đại như sắt thép đinh bù loong… phương tiện chỉ là dao rựa và rìu, ngôi nhà rông với gỗ và tranh tồn tại ngạo nghễ như chiếc rìu lộn ngược giữa trời xanh bất chấp nắng mưa gió bão. Các kỹ sư xây dựng còn tính rằng các tỉ lệ của nhà rông rất chuẩn chứ nếu không chả cần gió bão nó cũng sẽ tự sập vì chính trọng lượng của nó. Thế mà chỉ một tay nghệ nhân mù chữ, cả đời chưa bước qua giọt nước làng, toàn ước lượng bằng mắt và bằng một lời dẫn nào đó từ một cõi nào đó chứ như đã nói, họ làm gì có kinh nghiệm, ngôi nhà rông cao vút trở thành biểu tượng của sức mạnh Tây Nguyên và là biểu trưng của văn hóa Tây Nguyên.
Sau này chúng ta ồ ạt đưa các nhà rông văn hóa tôn bê tông xi măng vào thay thế, vừa làm hỏng toàn bộ bản sắc của ngôi làng Tây Nguyên, làm biến mất sự hài hòa, vừa làm lụt tay nghề của các nghệ nhân. Bởi như đã nói, nghệ nhân làm nhà rông rất hiếm, theo quan niệm, đấy phải là những người được Yang tin tưởng, ban cho bí quyết. Bây giờ đưa mấy ông thợ xây hạng bét vào xây nhà rông văn hóa đồng loạt, sơn xanh đỏ tím vàng chả cần tỉ lệ kích thước, chả cần màu sắc tâm linh, yếu tố bí ẩn mất đi, nhà rông ấy phơi ra dưới nắng chả có ai lên, và nó tự hỏng.
Cũng chả phải tự nhiên mà trên nóc các nhà rông lại có các biểu tượng rau dớn, mặt trăng mặt trời… nó có lý của nó cả. Rồi trong nhà rông có gói vật thiêng, có cái thiêng liêng mà con người chỉ được công nhận chứ không thắc mắc, không giải thích. Nhà rông vì thế nó vừa gần gũi nhưng lại vừa thiêng liêng. Tưởng chừng ai lên cũng được nhưng té ra không phải, nó có luật lệ của nó dù nó là nhà chung của làng. Và cũng bởi vì thế nên khi có việc làng người ta toàn cúng ở cây nêu trước sân nhà rông. Bởi cây nêu và cái nóc nhà rông kia chính là nơi “trung chuyển” giữa thế giới thần và người, mất đi yếu tố ấy nhà rông chỉ còn là cái xác không hồn.
Tượng mồ cũng thế. Tôi đã chứng kiến sự kinh ngạc của các nhà nghiên cứu nổi tiếng như giáo sư Từ Chi, Ngô Văn Doanh… cũng như sự thán phục từ các họa sĩ điêu khắc đương đại trước một thế giới tượng vô cùng sống động trong những khu nhà mồ. Chỉ có rìu và con rựa, họ biến những cây gỗ chặt từ rừng về thành những pho tượng có hồn với rất nhiều sắc thái biểu cảm đặt xung quanh khu mộ để rồi… bỏ đi. Thế mà tượng mồ lung linh sống động, mà mang trong nó cả nhân gian dằng dặc, mà toàn bộ thần thái đời sống, toàn bộ tình cảm của người sống hiển hiện trong đó. Họ không coi đấy là những tác phẩm nghệ thuật, đơn giản là họ trải lòng mình vào những phiến gỗ ấy, họ “cử” những pho tượng ấy, thay họ đi theo người chết để hầu hạ người chết, bầu bạn với người chết. Những pho tượng làm kinh ngạc người hôm nay ấy, chỉ một lần duy nhất được chiêm ngưỡng là hôm làm lễ pơ thi (bỏ mả) rồi sau đấy là mặc gió mưa cho đến lúc mục. Không phải ai trong làng cũng có thể làm được tượng. ồn rằng Yang nhập vào ai người đó mới làm được, và cũng không phải lúc nào cũng có thể làm, mà phải đúng lúc xuất thần nhất, lúc mình không còn là mình nữa, mới bắt tay vào làm. Các nghệ nhân săn voi (gru) cũng thế, có dịp tôi xin trình bày vào dịp khác…
Một sáng đẹp trời, toàn bộ thanh niên trai tráng trong làng được huy động đi chặt cây. Phải là những cây cổ thụ trong rừng nguyên sơ. Từng cây được tập kết về một khu đất trống, thường là gần khu mồ. Rồi lại cũng một ngày đẹp trời nào đó, nghệ nhân, phải gọi họ là siêu nghệ nhân, sau khi dọn mình, bắt đầu ra tay. Nhiều nhất là hình người ngồi ôm mặt trong dáng của bào thai, hình trai gái giao hoan, hình bộ phận sinh dục nam nữ, hình chim, khỉ vân vân. Ngày này sang tháng khác, bao giờ tượng mồ đủ thì lễ pơ thi mới bắt đầu…
Ngôi nhà mồ cũng là một đặc sắc kiến trúc Tây Nguyên. Với rất nhiều hoa văn tinh xảo từ trên nóc xuống mái đến hàng rào xung quanh, nó vừa ấm cúng vừa gợi lên sự xa ngái. Các tượng mồ được chôn xung quanh ngôi nhà mồ. Nên nhớ, điều trác tuyệt là ở chỗ, tất cả những gì đẹp đẽ tinh xảo đến rợn ngợp kia, sau lễ bỏ mả là sẽ bỏ luôn, mặc nắng mưa, mặc mối mọt, người sống không bao giờ quay lại nữa, tác giả của nó, nghệ nhân siêu đẳng kia cũng không một chút luyến tiếc. Tài hoa của họ, người chết và Yang đã chứng kiến hôm bỏ mả rồi.
Chỉnh chiêng cũng là một bí ẩn nữa của nghệ nhân. Người đương thời hay gọi là lên dây chiêng nhưng có lẽ dùng chỉnh chiêng đúng hơn. Người Tây Nguyên phần nhiều là mua chiêng về dùng, và bản thân những người đúc chiêng thì không biết chỉnh âm thanh chiêng. Mà chiêng mua về muốn dùng được thì phải chỉnh. Thế là ở các làng Tây Nguyên xuất hiện các nghệ nhân chỉnh chiêng.
Nghệ nhân cồng chiêng tây nguyên
Bằng khả năng trời cho, họ nghe tiếng chiêng, rồi chỉ bằng một tấm chăn đặt dưới để đỡ chiêng, một chiếc búa nhỏ cỡ ngón tay cái đầu nhọn đầu tù, họ gõ theo một linh cảm đặc biệt, gõ theo vành chiêng, cứ thế lần lượt từng cái cho đến khi cả dàn chiêng thành một thể. Tôi có dịp tháp tùng nhiều nhạc sĩ nghiên cứu âm nhạc cồng chiêng, và đến màn chỉnh chiêng, nhiều ông chắp tay… vái các nghệ nhân.
Và bởi thế nên các nghệ nhân chỉnh chiêng rất hiếm, có khi cả vùng rộng lớn cỡ nửa tỉnh mới có một vị. Một thời gian dài cồng chiêng bị cất nhiều hơn chơi, bán nhiều hơn giữ, nên các nghệ nhân càng mai một. Có một ông ở huyện Krông Pa, Gia Lai nhưng thường xuyên được vời qua các huyện ở ăk Lak để hành nghề, muốn gặp ông này khó hơn gặp… Yang. Vừa rồi sau khi UNESCO công nhận không gian văn hóa cồng chiêng là di sản văn hóa phi vật thể thì việc phát huy chiêng có vẻ được lưu ý hơn. Có vài cuộc thi chỉnh chiêng, vài lớp dạy chỉnh chiêng… nhưng theo chúng tôi, đấy mới là phần vỏ, phần hình thức, cái bí ẩn bên trong mới là điều kiện tiên quyết, mới là quan trọng, bởi, bây giờ nếu giao cho chỉ một ông thợ mộc thôi, một ngày ông ta có thể đẽo được một cái tượng mồ rất đẹp, trơn tru nhẵn nhụi, đánh bóng quang dầu nữa… nhưng rõ ràng cái hồn cái cốt của tượng không có. Cũng như thế, hàng loạt nhà rông được thiết kế cẩn thận, rồi thợ người Kinh lành nghề dựng lên, nhưng nó cứ trơ trơ vô cảm.
Thì ra cái bí ẩn nghệ nhân, cái phần mờ nhòe trong thế giới tâm linh ấy, cái không rành mạch không lý giải ấy… nó là một phần của đời sống tinh thần Tây Nguyên. Cuộc sống nhờ thế mà thi vị hơn, xốn xang bí ẩn hơn, khát khao hơn và nhiều hy vọng hơn. Cũng như tình yêu ấy, ai chả biết, ai chả trải qua, nhưng vẫn bắt con người tự nguyện lao đao khốn khổ…
Nghệ nhân Y Lon Nie đang chỉnh chiêng
Và bởi thế nên, nói rộng ra, văn chương nghệ thuật luôn song hành cùng con người, tồn tại cùng con người dù cho bất kỳ hoàn cảnh nào, cho dù cuộc đời có đau đớn đến đâu, đói khổ đến đâu, bởi nó biết cách nâng đỡ và an ủi con người, nó cho con người hy vọng…
Thế nhưng, những người làm nên bí ẩn ấy, những nghệ nhân dân gian ấy, đang ngày càng thưa đi, dù chúng ta đã có rất nhiều chính sách để bảo vệ và tạo điều kiện cho họ. Có rất nhiều lý do, cả chính đáng và phi lý để họ ngày một thưa vắng. Họ đã bí ẩn xuất hiện và rồi bí ẩn… mất đi.
Video đang HOT
ể một ngày, những người có trách nhiệm phải đốt đuốc tìm nghệ nhân, và thậm chí, mở lớp… dạy nghệ nhân.
Theo vietbao
Sự khác biệt thú vị giữa trẻ con ngày ấy và bây giờ
Dù thiếu thốn về vật chất nhưngđời sống tinh thần của trẻ con ngày ấy có thể khiến thế hệ trẻ bây giờ phải ngưỡng mộ và thèm thuồng.
Từ những trò chơi "0 đồng" đến những chiếc iPhone, iPad đắt tiền
Có lẽ những ai đã từng trải qua quãng thời gian tuổi thơ trên những khoảng sân, vườn rộng rãi sẽ không thể quên được tiếng cười giòn tan của các trò chơi thời xưa. Đó là những trò chơi đa dạng, vui và rẻ đến mức hầu như không tốn đồng nào.
Trò chơi đánh quay.
Thời ấy, một trong số những trò chơi phổ biến với các cậu bé là trò đánh quay. Chơi đánh quay phải cần có hai, ba đứa chơi mới vui. Lũ trẻ vẽ cái vòng tròn trên mặt đất, xong oẳn tù tì xem đứa nào thua thì cho vụ của mình vào trong vòng. Những đứa khác lần lượt dùng quay của mình đánh con quay nằm trong cái vòng.
Chơi xong, lũ trẻ thường đem những con quay của mình ra để so sánh xem con của đứa nào bị "thẹo" nhiều nhất, rồi tranh cãi xem cái thẹo ấy là bị ai đánh, rồi lại hỉ hả khi biết cái thẹo gây ra trên "nạn nhân" là của mình.
Bên cạnh trò chơi quay, các cậu bé còn rất mê bắn bi. Chả thế mà ngày xưa, đứa nào cũng có một "bộ sưu tập" các loại bi đủ màu sắc và kích cỡ. Chỉ trong 15 phút ra chơi, các cậu học sinh cũng kịp chơi vài ván bắn bi. Vài viên bi tròn tròn mà có biết bao kiểu chơi. Một kiểu chơi thường gặp nhất là vẽ một vòng tròn hoặc hình vuông nhỏ gọi là hòm hay lồ, cách đó 1,5-2m vẽ một vạch thẳng. Mỗi người chơi góp một số lượng bi bằng nhau và cho vào hòm. Những người chơi lần lượt bắn bi cái từ vạch thẳng về phía hòm. Những viên bi bị bắn ra khỏi hòm sẽ thuộc về người chơi.
Thời ấy, cậu nhóc nào cũng có cả một "bộ sưu tập" bi đủ màu sắc.
Trong khi đó, các bé gái ngày ấy đặc biệt "kết" hai trò là nhảy dây và chơi chuyền. Nhảy dây có 2 kiểu là nhảy dây thừng và nhảy dây chun. Nhảy dây thừng thì đơn giản nhưng nhảy dây chun thì không phải cô nhóc nào cũng chơi được. Người chơi phải nhảy từ bậc đầu gối đến khuỷu tay rồi bậc kiễng chân...
Nhảy dây thừng...
... và nhảy dây chun.
Trò chơi chuyền thì khiến nhiều cô nhóc mê tít đến nỗi mang cả đũa nhà ăn cơm ra chơi, chơi xong lại bỏ vào ống. Quả chuyền thường thì bằng quả bưởi, cam nhỏ, nhưng ko có thì lấy củ khoai tây hay gọt củ su hào, miễn tròn tròn là được. Quả chuyền tung lên hạ xuống nhịp nhàng theo tiếng bài thơ vần và tiếng cười lanh lảnh đến giờ vẫn còn in đậm trong ký ức nhiều người.
Nhiều cô nhóc mê tít trò chơi chuyền.
Những trò chơi "0 đồng" và mang tính tập thể của ngày xưa giờ chỉ còn lưu lại qua những bức ảnh và câu chuyện kể lại. Trẻ em thời nay có những thú vui hoàn toàn khác, tốn kém hơn và có xu hướng thích chơi một mình. Nhiều người lớn giờ ngậm ngùi vì nhà cửa san sát, không còn nhiều khoảng trống để nuôi lớn những tâm hồn trẻ nhỏ.
Trẻ con giờ mê điện tử....
Với các gia đình ở thành phố hiện nay thì có lẽ chi phí dành cho tuổi thơ của con là một khoản không nhỏ. Những món đồ chơi đắt tiền như xe điều khiển, máy chơi game, các đồ điện tử đều có giá hàng trăm nghìn đồng. Trẻ em chơi thường không biết giữ nên việc hư hỏng thường xuyên là một điều không tránh khỏi. Sang hơn nữa, nhiều bậc phụ huynh còn mua cho con chơi iPhone, iPad từ lúc còn bé tí. Các bé gái thì được sắm sửa bộ sưu tập nào búp bê Barbie, bộ đồ chơi đồ hàng, thú nhồi bông sặc sỡ. Tính ra trị giá của những món đồ chơi ấy cũng phải lên đến tiền triệu.
Bấm iPad, iPhone nhoay nhoáy.
Nhiều cậu nhóc còn lao vào thú vui chơi game trực tuyến, tiền nạp thẻ, mua đồ cho các nhân vật ảo nhiều khi lên đến tiền triệu. Ngay cả ở những vùng quê nghèo, các tiệm chơi điện tử cũng mọc lên như nấm. Nhìn những cô bé, cậu bé mới học cấp 1 bấm máy tính, iPad nhoay nhoáy và nhớ lại hình ảnh chân chất ngày xưa, có thể thấy sự khác nhau rất nhiều của 2 thế hệ.
Tắm rửa
Có một điều mà không cần nói thì ai cũng biết, đó là trẻ con ngày xưa... bẩn hơn trẻ con bây giờ nhiều lắm. Mùa hè thì may ra ngày nào cũng nhảy xuống ao hồ hay tắm ngoài bờ giếng, chứ ngày đông thì cả tuần hay thậm chí cả tháng mới tắm một lần.
Với trẻ con ngày xưa, mỗi trận mưa rào đổ xuống mùa hè là một lần vui như hội. Không ai bảo ai, mỗi đứa đều nài nỉ bố mẹ cho được tắm mưa, rồi sau khi được phép thì liền ào ngay ra đường, nơi có những "chiến hữu" đang đợi sẵn.
Trẻ con xưa "vui như hội" mỗi khi có trận mưa rào.
Chúng bày đủ mọi trò chơi dưới mưa. Hết rượt đuổi nhau trong mưa, ném bùn đất vào nhau, xây lâu đài, hoặc đào những hố nhỏ rồi đào kênh dẫn cho nước chảy vào...
Những đứa bé lớn lên trong thời đại mới có lẽ chẳng có cậu nhóc nào được thử cái cảm giác ấy. Các bậc phụ huynh thời nay thì áp dụng đủ mọi phương pháp khoa học nhất, tiên tiến nhất để bảo vệ con mình khỏi những hiểm nguy tưởng như lúc nào cũng đang rình rập xung quanh. Và việc để cho lũ trẻ chạy rong trên nền đất sình lầy, dưới cơn mưa lạnh lẽo có lẽ là không tưởng. Làm sao những ông bố, bà mẹ nuôi con theo khoa học dám để con trầm mình dưới làn nước ào ào như thác đổ, khi mà có biết bao nhiêu thứ dơ bẩn đang ẩn mình trong đó?
Trẻ con ngày nay được tắm dưới vòi hoa sen hay trong những bồn tắm trắng tinh.
Trẻ con ngày nay được tắm rửa trong căn phòng kín đáo. Mùa hè thì nước mát, mùa đông thì nước ấm. Nếu chẳng may đi đường gặp trời mưa và dính phải chút nước mưa, các ông bố bà mẹ sẽ vội vàng giục giã con đi tráng lại người bằng nước ấm cho khỏi ốm. Sống trong những ngôi nhà tiện nghi không thiếu thứ gì, trẻ em thời nay được bao bọc từng li từng tí.
Chuyện học hành
Hình ảnh các bậc phụ huynh tấp nập đèo con đến trường vào buổi sáng rồi lại đón con vào mỗi buổi chiều đã quá quen thuộc thời nay. Nhớ lại ngày xưa, cô cậu học trò nào cũng phải tự mình đi bộ đến trường. Đứa nào may lắm thì được bố mẹ hay anh chị tiện đường chở đến trường.
Trẻ em xưa trên con đường đến trường....
... Và trẻ em ngày nay.
Đến bây giờ, có lẽ những cô cậu học trò sẽ chết ngất khi nghe nói bố mẹ mình thời xưa từng phải đi bộ đến cả chục cây số để đến trường. Nhưng quãng đường tưởng xa tít tắp ấy ngày nào cũng ngập tiếng cười của những cô bé, cậu bé rủ nhau cùng đi bộ tới trường.
Trẻ con bây giờ sáng vừa mở mắt đã có sẵn bữa sáng đầy đủ đồ ăn, thức uống. Chỉ vệ sinh sạch sẽ xong là bố mẹ sẵn sàng đèo đến trường. Nhiều cô cậu nhà có điều kiện còn được đưa đón bằng xe hơi, mưa không tới mặt, nắng chẳng tới đầu.
Sự khác biệt giữa trường học ngày ấy....
... và bây giờ.
Ngày ấy, nơi trẻ con đến học chủ yếu là những ngôi trường công lập. Trường được xây dựng đơn giản kiểu nhà cấp 4 bây giờ. Tuy phòng học ọp ẹp và cũ kỹ, song khoảng sân trường lại thường rất rộng rãi và nhiều cây cối. Thời ấy chỉ có hệ thống trường công lập chứ không có trường tư, trường quốc tế hoành tráng như bây giờ.
Ăn mặc
Những người trưởng thành bây giờ có lẽ vẫn còn nhớ như in cái thời tuổi thơ thiếu thốn ngày xưa. Khi ấy, trẻ con chỉ có 2, 3 bộ quần áo mùa hè, mùa đông có thêm chiếc áo len và áo khoác ấm. Bộ đẹp thì để mặc đi học, ở nhà chỉ mặc bộ nào cũ kỹ, xấu xí, tích kê dày cứng cả đũng quần. Trẻ con vốn nghịch ngợm, quần áo lăn lê bò toài chẳng mấy chốc mà rách bươm. Ấy là còn chưa kể có đứa lớn nhanh, quần áo mua chẳng mấy bận mà chiếc quần chấm gót đã trở nên ngắn cũn cỡn.
Trẻ con ngày ấy chỉ được diện quần áo mới vào dịp Tết.
Có lẽ cả năm trời, thời điểm duy nhất trẻ con được mặc áo mới là khi Tết đến. Bộ quần áo mùa đông dành cho ngày Tết ấy được nâng niu lắm, mãi đến sáng mùng một mới mang ra mặc cho mới, cho đẹp. Còn ngày thường thì mặc quần áo cũ, chị để cho em hoặc bà cắt từ những chiếc áo của bố mẹ, may nhỏ lại thành ra của trẻ.
Cuộc sống thiếu thốn khiến trẻ nhỏ lúc nào cũng háo hức chờ mong đến Tết. Không chỉ được mặc quần áo mới, dịp Tết là lúc chúng được thỏa chí ăn những món ngon lành mà ngày thường chỉ dám mơ.
Trẻ con giờ được bố mẹ dẫn đi mua sắm quần áo thời trang.
Còn trẻ em bây giờ, đặc biệt là ở thành phố, thì áo bò, áo phao, quần nhung, quần yếm đủ cả, con gái thì thời trang với đủ loại váy áo, mũ, khăn... Với các bậc phụ huynh bây giờ, có lẽ việc mua cho con những bộ quần áo xinh xắn hay hàng hiệu là một điều không có gì phải nghĩ ngợi.
Xã hội ngày càng phát triển. Trẻ em giờ không thiếu đồ ăn thức uống. Trong ngăn tủ lạnh lúc nào cũng đầy ắp thực phẩm, lũ trẻ không còn phải chờ đến Tết mới được ăn thịt cá, bánh kẹo. Thậm chí, nhiều cô cậu bây giờ còn không hào hứng đến Tết vì... sợ làm bài tập về nhà. So sánh với hình ảnh thiếu thốn cách đây chừng 20, 30 năm mới thấy cuộc sống thay đổi nhanh đến nhường nào.
"Về quê giúp trẻ cảm nhận thiên nhiên tốt hơn" Nhìn nhận vấn đề này, cô giáo Trần Thị Mến, giáo viên dạy văn, Trường Trung học cơ sở Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội cho rằng: Nghỉ hè cho trẻ về quê là điều rất cần thiết trong việc giáo dục tình yêu con người, thiên nhiên. Đó còn là sự phát triển toàn diện khả năng sáng tạo trí tuệ cho các em. Chỉ có biết rõ và cảm nhận về những điều xung quanh mình, trẻ mới phát triển được hết các khả năng trong học tập. Ví dụ như có về quê, được chứng kiến dòng sông trong xanh hay cảnh thanh bình của làng quê chúng mới miêu tả sắc nét, có hồn. Ngược lại, nếu không biết, không cảm nhận và nhìn thấy sự vật thật sự thì chúng không thể phát huy được khả năng tư duy của mình, do bị thụ động vào sách tham khảo...". Trẻ em thành thị và nông thôn "đổi vai" để "giải ngố" Mỗi dịp nghỉ hè, nhiều đứa trẻ thành phố lại háo hức được về quê thăm thú họ hàng, khám phá thiên nhiên. Trong số đó, có những đứa lần đầu tiên đặt chân về quê nên cái gì với chúng cũng hết sức lạ lẫm. Chị Lê Thùy Dương (Hoàn Kiếm, Hà Nội) chia sẻ: "Đây là lần đầu tiên tôi để Tôm - con trai 7 tuổi ở lại quê với ông bà ngoại nhân dịp nghỉ hè. Cháu vốn là đứa nhút nhát, không thích tiếp xúc với ai, suốt ngày mê vi tính. Sợ con không quen, tôi ở lại 3 ngày để hướng dẫn cháu thích nghi với cuộc sống ở quê. Mấy ngày đầu con trai gọi về cho mẹ liên tục nhưng mấy ngày nay, cu cậu không nghe điện tôi gọi vì mải đi chơi. Hỏi thăm mới biết sau một tuần, cu cậu đã thích nghi với cuộc sống ở quê, nhanh nhẹn và bớt ngây ngô hơn". Kể về ngày đầu tiên Tôm về quê, chị Dương cho biết: "Khi về đến đầu làng, thấy mấy người đang lúi húi dưới ruộng, Tôm giật mình hỏi: "Mẹ ơi, mấy người kia lớn rồi mà vẫn chơi trò trốn tìm kìa mẹ". Nhìn theo cánh tay con, tôi không khỏi giật mình."Những người nông dân kia đang xới đất cho cây đay, không phải chơi trò trốn tìm", tôi giải thích. Tôm hỏi tiếp "Cây rau đay nhà mình vẫn ăn hả mẹ? Sao cây ở đây to và non thế, lại không có màu tím tím nữa". Khi đi qua chiếc lò gạch đang nung, khói bốc lên, Tôm hét toáng, mặt tái mét: "Cháy, cháy nhà!". Nghe con nói, tôi thấy mình thật có lỗi bởi mấy năm qua không dạy con kiến thức về thiên nhiên, quê quán... Khác với Tôm, bé Bin 10 tuổi con chị Nguyễn Thị Nga (Hai Bà Trưng, Hà Nội) sau một lần được về quê vào dịp hè năm ngoái, lại tiếp tục đòi về. Bé kể, ở thành phố, không được đi ra ngoài chơi, chỉ ở nhà với người giúp việc. Trong khi đó, về quê được đi khắp nơi. Vừa được nghỉ hè, cháu náo nức giục bố mẹ cho về quê chơi và dự định xin ông bà cho một góc đất nhỏ để trồng rau. Với một số phụ huynh khác, ngoài lí do cho con về quê gửi trẻ, họ cho trẻ về để xả stress sau những ngày vất vả học hành. Bên cạnh đó các cháu sẽ rèn luyện sức khỏe, lòng yêu thương, được sống trong môi trường trong lành. Điều đó, với các cháu đang tuổi lớn, đang hoàn thiện nhân cách là hết sức cần thiết và bổ ích.
Theo vietbao
Chuyện kể về bức tượng Bác Hồ bằng đồng đầu tiên Hơn một năm sau ngày Bác mất, nhà điêu khắc Lê Qùy đã nảy ra ý tưởng đúc tượng Bác Hồ bằng đồng. Chỉ sau hai tháng miệt mài, các nghệ nhân làng Chè Đông đã cho ra đời tác phẩm. Làng Chè Đông, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa là ngôi làng nổi tiếng với nghề đúc đồng từ...