Ngân hàng đang trở thành “con tin” của hợp đồng vô hiệu…
Đối với trường hợp hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu do lỗi bên thứ ba, phía ngân hàng đang phải gánh chịu nhiều thiệt thòi. Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico đã có trao đổi với ĐTCK về hậu quả pháp lý từ hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu.
Luật sư Trương Thanh Đức
Khi hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu đồng nghĩa với việc không xử lý được tài sản bảo đảm – vốn là phao cứu sinh của ngân hàng, còn khách hàng vẫn chây ỳ trả nợ. Trong khi, đây là giao dịch tự nguyện giữa các bên. Nếu trường hợp lỗi thuộc về người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan (giả dụ như cơ quan chức năng cấp sai sổ đỏ dẫn đến hợp đồng thế chấp bị vô hiệu), phải chăng ngân hàng đã gánh chịu nhiều thiệt thòi, thưa luật sư?
Về nguyên tắc, nếu hợp đồng thế chấp đã thể hiện ý chí tự nguyện của các bên thì không thể bị vô hiệu. Nếu có sai sót về thủ tục pháp lý thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, pháp luật lâu nay quy định theo hướng đi ngược lại sự tự do, tự nguyện ý chí của các bên, tức coi hợp đồng vô hiệu nếu không được công chứng, hoặc đăng ký thế chấp, hoặc thiếu sót về bất kỳ một điểm nào đó.
Trường hợp bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có lỗi khiến cho hợp đồng vô hiệu thì phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại thực tế cho bên nhận bảo đảm. Nguyên tắc là như vậy, nhưng trên thực tế, chưa có cơ quan hay cá nhân nào phải chịu trách nhiệm. Tình trạng nợ xấu “khủng” tại ngành ngân hàng trong thời gian qua, có một phần lớn nguyên nhân từ những lỗi như trên.
Có ý kiến cho rằng, tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng lại bỏ mặc quyền lợi của đương sự. Do vậy, mỗi khi ra phán quyết, tòa án cần đưa phương án giải quyết hậu quả sau quyết định trên. Theo ông, đề xuất này có khả thi không?
Có rất nhiều trường hợp tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Điển hình phải kể đến việc hàng triệu căn nhà ở nông thôn, chỉ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng trên đó lại không được ghi nhận quyền sở hữu nhà ở. Khi mang đi thế chấp ngân hàng, công chứng không được phép ghi nhận quyền sở hữu nhà, cơ quan đăng ký thế chấp cũng vậy. Nhưng đến khi xảy ra khiếu kiện, tòa án lại dựa vào lý do chỉ thế chấp quyền sử dụng đất, không thế chấp nhà ở nên sẵn sàng tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu.
Nếu tòa án đã tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu, thì sẽ “không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập” hợp đồng. Khi đó, “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” theo quy định tại Điều 137 về “Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”, Bộ luật Dân sự năm 2005. Tức là ngân hàng phải trả lại tài sản và giấy tờ sở hữu cho bên thế chấp, còn bên thế chấp không phải trả lại gì.
Hậu quả là ngân hàng không thu được nợ vay, trong khi trách nhiệm trả nợ là của bên vay, không phải của bên thế chấp. Bên thế chấp rõ ràng đã bội ước, lật lọng, thậm chí là lừa đảo, nhưng không phải chịu trách nhiệm. Cuối cùng, chỉ ngân hàng phải gánh chịu thiệt hại.
Video đang HOT
Thưa luật sư, có căn cứ pháp luật nào ngân hàng được bồi thường từ hợp đồng thế chấp vô hiệu không ạ?
Nếu bên vay vốn đồng thời là bên thế chấp, thì đương nhiên có nghĩa vụ trả nợ và bồi thường thiệt hại cho ngân hàng. Nếu bên thế chấp là người thứ ba, thì không có quy định rõ ràng, cụ thể nào về việc bồi thường.
Điều 137 nói trên cũng đã quy định: “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”, tuy nhiên, hợp đồng bảo đảm là cơ sở để xử lý trách nhiệm trả nợ và bồi thường khi người vay không trả nợ, bởi vậy, khi đã bị vô hiệu thì rủi ro của ngân hàng là rất lớn. Kể cả trường hợp ngân hàng được quyền bồi thường do hợp đồng thế chấp vô hiệu, thì vấn đề khó nhất vẫn là không có tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Luật sư Nguyễn Văn Thái, Công ty Luật Bross và cộng sự
Hợp đồng thế chấp vô hiệu không đồng nghĩa với hợp đồng tín dụng vô hiệu. Khoản công nợ vẫn được bên vay chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Tại giai đoạn thi hành án, nếu bên thế chấp vẫn đồng ý sử dụng tài sản thế chấp trước đây (dù Hợp đồng thế chấp đã bị tuyên bố vô hiệu) để đảm bảo cho khoản nợ của bên vay (bên được thế chấp), thì cơ quan thi hành án vẫn có thể sử dụng làm tài sản đảm bảo thi hành án và tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Khoản 2, Điều 137 Bộ luật Dân sự nêu: “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Do đó, nghĩa vụ của ngân hàng phải chứng minh trước tòa án là giá trị thiệt hại phát sinh từ hợp đồng thế chấp vô hiệu và người nào có lỗi gây ra thiệt hại. Nếu người có lỗi là đương sự trong vụ án tranh chấp, ngân hàng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ngay trong vụ án tranh chấp kiện đòi nợ theo hợp đồng tín dụng.
Nếu người có lỗi không phải đương sự (như công chứng viên hoặc cơ quan, tổ chức khác), thì ngân hàng có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng riêng.
Đỗ Mến thực hiện.
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Lỗi thẩm định, chủ nợ lâm "thế bí"
Cẩu thả trong khâu thẩm định, thậm chí "phớt lờ" tính pháp lý của tài sản đảm bảo, dẫn đến hợp đồng thế chấp có khả năng bị tuyên vô hiệu. Rủi ro này khiến chủ nợ là ngân hàng lâm vào "thế bí".
Tài sản đảm bảo chính là "phao cứu sinh" của ngân hàng khi xảy ra tranh chấp hợp đồng tín dụng, nên không thể thẩm định lơ là
Đã có rất nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng có nguyên nhân xuất phát từ khâu thẩm định. Hậu quả của việc thẩm định cẩu thả, thậm chí "lờ" đi tính pháp lý của tài sản đảm bảo khiến hợp đồng thế chấp có khả năng bị tuyên vô hiệu. Đối với ngân hàng, đây là rủi ro lớn bởi ngân hàng sẽ chẳng biết "bấu víu" vào đâu khi mà "phao cứu sinh" cuối cùng là tài sản đảm bảo đã nằm ngoài tầm với.
Vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa một ngân hàng và CTCP Sản xuất thương mại bao bì Hùng Vân (Công ty Hùng Vân) mới đây là một ví dụ. Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội vừa quyết định hủy bản án sơ thẩm tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và Công ty Hùng Vân. Quyết định không chỉ khiến vụ án bị kéo dài thời gian, mà còn cho thấy "lỗ hổng" lớn trong khâu thẩm định của ngân hàng này.
Được biết, cuối năm 2011, ông Trần Trung Hùng, Giám đốc Công ty Hùng Vân ký với ngân hàng hợp đồng cung cấp hạn mức tín dụng số tiền là 12 tỷ đồng theo 4 khế ước nhận nợ. Thời hạn trả nợ là 5 tháng, mức lãi suất thỏa thuận của từng khế ước dao động từ 20,5- 22%/năm.
Ông Hùng đã thế chấp 3 tài sản gồm: quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất diện tích 54,5m2 tại xã Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm (Hà Nội) của gia đình; quyền sử dụng đất và tài sản trên đất diện tích 380m2 của hộ gia đình ông Trần Hữu Minh; quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với thửa đất diện tích 172m2 tại quận Cầu Giấy do ông Nguyễn Công Điều đứng tên.
Sau khi nhận tiền giải ngân, Công ty Hùng Vân đã sử dụng để thanh toán tiền hàng. Tuy nhiên, khi đến hạn trả nợ, Công ty Hùng Vân không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi. Kể từ khi vay, ông Hùng mới trả được 1,2 tỷ đồng tiền lãi.
Sau nhiều lần đôn đốc nợ bất thành, ngân hàng quyết định khởi kiện Công ty Hùng Vân ra tòa đề nghị thanh toán toàn bộ nợ gốc là 12 tỷ đồng, lãi tạm tính đến ngày 14/1/2015 là hơn 5 tỷ đồng (gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi phạt do chậm trả) và tiền phạt do vi phạm hợp đồng và 240 triệu đồng.
Phía bị đơn mong muốn được trả dần nợ gốc trong 5 năm, giảm mức lãi suất trong hạn, miễn lãi quá hạn và tiền phạt. Tuy nhiên, đề nghị này không được ngân hàng đồng ý.
Giải quyết tại cấp sơ thẩm, Tòa án Nhân dân quận Nam Từ Liêm chấp nhận yêu cầu đòi nợ 12 tỷ đồng, xử lý 1 phần tài sản đảm bảo và bác bỏ đề nghị phát mại 2 khối tài sản là nhà, đất của hộ gia đình ông Trần Hữu Minh và Nguyễn Công Điều. Đồng thời, không chấp nhận lãi phạt do chậm trả và tiền phạt vi phạm hợp đồng.
Chính vì 2 vấn đề trên mà ngân hàng kháng cáo bản án sơ thẩm.
Đối chiếu với nhiều trường hợp khác, vấn đề mấu chốt trong vụ án này là "kẽ hở" trong thế chấp tài sản. Cơ quan công tố đã chỉ ra rằng, lỗi xuất phát từ chính khâu thẩm định của ngân hàng.
Trong 3 tài sản đảm bảo thì có 2 tài sản là hộ gia đình ông Trần Hữu Minh và Nguyễn Công Điều có tính chất pháp lý ràng buộc.
Tại thời điểm thế chấp, vợ ông Nguyễn Công Điều không hề hay biết và không được ký vào hợp đồng. Trong khi theo Luật Hôn nhân gia đình, nhà đất này là tài sản chung của hai người, nên vợ ông Điều cũng phải có trách nhiệm liên đới.
Tương tự, vào năm 2007, thửa đất của ông Trần Hữu Minh đã được chuyển nhượng một phần cho người khác xây nhà kiên cố trên đó.
Để bảo vệ quyền lợi, ngân hàng đã xuất trình giấy tờ đề năm 2012 với nội dung vợ ông Điều cam đoan tài sản đem thế chấp là tài sản riêng và ông Điều có quyền định đoạt mà không cần hỏi ý kiến của bà.
Về thửa đất còn lại, ngân hàng cho rằng, hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên chưa hoàn tất nên không được pháp luật bảo vệ.
Song những lập luận trên của ngân hàng đều không được chấp thuận. Bởi lẽ, ngân hàng không chứng minh được chữ ký của vợ ông Điều trong giấy cam đoan. Còn thửa đất của hộ ông Trần Hữu Minh, tài liệu hồ sơ thể hiện bên nhận chuyển nhượng đã xây nhà và chuyển hộ khẩu.
Trong vụ án này, Hội đồng xét xử nhận định, ngân hàng không làm hết trách nhiệm khi lập hợp đồng thế chấp. Để đảm bảo giải quyết vụ án triệt để, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội quyết định hủy án sơ thẩm để giám định chữ ký của vợ ông Điều. Đồng thời, xem xét việc tuyên vô hiệu hợp đồng của hộ gia đình của ông Trần Hữu Minh là vô hiệu một phần hay toàn bộ.
Hà Linh
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Bị bắt giam vẫn có chữ ký trong hợp đồng thế chấp Ngày 16/12/2015, Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội đã xét xử vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV). Được biết, 2 năm trước, BIDV đã có đơn khởi kiện đối với Công ty TNHH Gia La (địa chỉ tại thị trấn Quang Minh, huyện Mê Linh, Hà...