Nếu Kennedy còn sống, chiến tranh Việt Nam sẽ khác?
Nửa thế kỉ sau ngày vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ bị ám sát, nhiều giả thuyết cho rằng John F. Kennedy đã có ý định rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Tổng thống JFK năm 1963.
Ngày này 50 năm trước, một viên đạn ở Dallas đã cướp đi sinh mạng của John F. Kennedy (JFK), tổng thống trẻ tuổi của Hoa Kì, người đàn ông quyền lực nhất thế giới thời điểm đó. Cái chết của ông rơi đúng vào thời khắc quyết định đối với vận mệnh của miền Nam Việt Nam, khi cách đó ba tuần và gần 10 vạn dặm, vị độc tài của chế độ Sài Gòn Ngô Đình Diệm cũng bị ám sát trong một cuộc đảo chính đẫm máu.
Richard Nixon từng tuyên bố những điều ông ta làm ở Việt Nam thì đều đã được JFK thực hiện. Còn em trai JFK, Robert Kennedy, đồng thời là Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Kennedy, trong một cuộc phỏng vấn năm 1964 cũng khẳng định anh trai ông chưa từng nghĩ tới việc rút quân khỏi Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều sử gia lại cho rằng nếu JFK còn sống sau sự kiện ở Dallas, thì cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã có một kết cục bớt khốc liệt hơn cho cả hai phía.
Vị tổng thống “thực quyền”
Mặc dù đứng ở trên đỉnh cao quyền lực, một điều trớ trêu là hầu hết các đời tổng thống Mỹ đều phải dựa vào đội ngũ cố vấn quân sự để đưa ra các quyết định chính sách hệ trọng. Hệ thống cố vấn này, được minh chứng qua các lần tham chiến của Mỹ trong thế kỉ 20 và 21, phần lớn thuộc phái diều hâu, cổ súy cho các biện pháp quân sự cứng rắn hơn là các giải pháp ngoại giao.
Dường như JFK khác biệt trên khía cạnh đó. Xuất thân từ quân ngũ, và bản thân cũng là một chuyên gia quân sự, JFK đặt niềm tin vào suy luận của mình nhiều hơn là những lời thúc giục chiến tranh bằng mọi giá của lực lượng này.
JFK vốn rất thận trọng với sự can dự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Dù là người trực tiếp phê chuẩn việc tăng cường viện trợ quân sự và đội ngũ “cố vấn” cho chính quyền Sài Gòn, ông sau này đã nhận định cuộc chiến ở miền Nam là “không thể chiến thắng” với người Mỹ, và rằng nên để cho người Việt tự giải quyết việc nội bộ với nhau. “Nói cho cùng, đó là cuộc chiến của họ. Họ là những người phải thắng hoặc thua”, Kennedy trả lời trong một buổi phỏng vấn với đài CBS.
Điều này được thể hiện rõ nhất vào mùa thu năm 1961, khi ông phủ quyết khuyến nghị điều động 8.000 quân Mỹ tới Việt Nam của tướng Taylor và Walt Rostow. John Newman, tác giả của cuốn JFK và Việt Nam [1], cho rằng đó chính là làn ranh giới mà ông cương quyết không vượt qua trong suốt nhiệm kì của mình. Theo Newman, JFK còn định rút hoàn toàn lực lượng cố vấn quân sự ra khỏi miền Nam vào cuối năm 1965, ý định mà sau này bị vị tổng thống kế nhiệm Johnson từ bỏ.
Sự “chần chừ” của JFK ở Việt Nam luôn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ đội ngũ cố vấn nhà Trắng, trong đó đứng đầu có McGeorge Bundy, bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara, và ngoại trưởng Dean Rusk. Những cuốn băng ghi âm các cuộc họp của nhà Trắng cho thấy JFK đã nhiều lần khiến cho bộ sậu này “phát điên” bởi sự cứng rắn trong quan điểm của mình. Điều này đã khiến cho cuộc chiến ở miền Nam dưới thời tổng thống JFK được ghìm lại ở mức đối đầu tối thiểu nhất giữa các bên tham chiến.
Chính đội ngũ cố vấn trên sau này tiếp tục đưa ra khuyến nghị leo thang quân sự ở Việt Nam cho tổng thống Lyndon Johnson. Họ cho rằng nước Mỹ cần phải cứu lấy người bạn Sài Gòn, dù cho chính quyền miền Nam ngày càng bị phản đối dữ dội bởi nạn tham nhũng, chế độ cai trị tàn bạo, và năng lực yếu kém. Khác với JFK, Johnson tin tưởng hoàn toàn những lời khuyên đó, vô hình chung đã đưa nước Mỹ lún sâu vào một cuộc chiến không lối thoát.
Hoài nghi bạo lực
Trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí Foreign Policy vào năm 2006, hai học giả tâm lý chính trị học nổi tiếng Daniel Kahneman và Jonathan Renshon cho rằng, trong hoàn cảnh nguy cấp, các chính trị gia thường chọn bạo lực hơn là đàm phán để giải quyết mâu thuẫn.
Nhưng JFK là trường hợp ngoại lệ. GS. James Blight của Đại học Brown, đánh giá với cái chết của JFK “Nước Mỹ và thế giới mất đi một nhà lãnh đạo mà ưu tiên số một luôn là giữ đất nước khỏi chiến tranh… Hơn nữa, ông đã chứng minh trong suốt 1.036 ngày tại vị rằng ông có sức mạnh để đương đầu với những cố vấn diều hâu vốn không dưới 6 lần khuyến nghị ông để nước Mỹ tham chiến”.
Chịu nhiều sức ép chính trị về việc phải cho quân tham chiến vào miền Nam Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh tâm lý chống cộng đang lan rộng, JFK vẫn liên tục phản đối bất cứ đề xuất “diều hâu” nào từ ban cố vấn, phản bác lại những dự đoán giản đơn và đầy màu hồng về sự thành công của can thiệp quân sự.
Video đang HOT
Là một người từng chiến đấu và suýt hi sinh trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, JFK không phải người sợ hãi các biện pháp bạo lực. Nhưng ông, với trí tuệ cũng như kinh nghiệm xương máu của mình, đã nhận ra rằng điều tất yếu của chiến tranh là loạn lạc, vô chính phủ, và sự mất kiểm soát về đại cục.
Và JFK cũng là người rất thực tế. Sau cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963 khi chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man người biểu tình, ông hiểu rằng người Mỹ không thể nào gắn bó với một chế độ như thế.
Sử gia Edward Miller, tác giả của cuốn Đồng Minh lạc lối: Ngô Đình Diệm, Hoa Kì, và định mệnh của miền Nam Việt Nam, [2] cho rằng đó là thời điểm Kennedy lựa chọn việc thay đổi chế độ ở miền Nam, để từ đó tìm kiếm các giải pháp ôn hòa hơn cho Việt Nam.
Một thế giới khác
Một nghiên cứu gần đây của James Blight và Janet M Lang, hai chuyên gia về chính sách ngoại giao của JFK, cho rằng thế giới sẽ trở nên hòa bình hơn rất nhiều, và chiến tranh Lạnh sẽ kết thúc vào năm 1969 (thay vì 20 năm sau) nếu như Kennedy không bị ám sát. Và cuộc chiến ở Việt Nam sẽ không để lại những hậu quả nặng nề đến vậy khi đến tận 1975 mới kết thúc.
Tất nhiên, lịch sử đã qua không có chỗ cho mệnh đề “nếu-như”. Tuy vậy, đề ra những giả thuyết đúng đắn nhất cho chính sách của Kennedy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn một giai đoạn đầy biến động của lịch sử thế giới. Và một phần nào đó, nó cũng là bài học lớn cho các chính trị gia sau này.
Nếu JFK đã thành công trong việc xử lý cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), khủng hoảng Bức tưởng Berlin (1961), và sự kiện vịnh Con Lợn (1961), qua đó ngăn chặn một thảm họa chiến tranh hạt nhân giữa hai siêu cường, thì không có lý do gì để nghi ngờ việc ông có thể sẽ chấm dứt sớm hơn cuộc chiến ở Việt Nam. Tiếc rằng, viên đạn vào ngày 22/11/1963 lấy đi sinh mạng của ông, và cả hi vọng cho một nền hòa bình ít đổ máu hơn ở Đông Dương.
Theo Khắc Giang
Vietnamnet
Sự thật bất ngờ về chiếc limousine trong vụ ám sát Tổng thống Kennedy
Điều ngạc nhiên là, sau khi Tổng thống Kennedy bị bám sát, chiếc xe limousine chở ông không hề "đoản mệnh" mà còn tiếp tục phục vụ 13 năm nữa, qua 3 đời Tổng thống Mỹ kế tiếp.
Chiếc xe limousine Lincoln của Tổng thống Kennedy đã được tân trang và nâng cấp để đảm bảo an toàn tốt hơn sau vụ ám sát năm 1963.
Không một chiếc xe nào có thể khắc sâu vào trí nhớ của một đất nước như chiếc limousine Lincoln mà Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã ngồi khi bị ám sát vào ngày 22/11/1963 ở thành phố Dallas. 5 thập niên sau khi những viên đạn được bắn ra làm thay đổi cả một đất nước, chiếc xe limousine đó hiện vẫn tiếp tục được trưng bày ở bảo tàng Henry Ford ở Dearborn,Michigan.
"Rất nhiều người cho rằng chiếc xe đã bị phá hủy hoặc bị giấu kín ở một nhà kho nào đó để không bao giờ được thấy nữa", Matt Anderson, người quản lý về xe cộ ở bảo tàng cho biết.
Chiếc xe nguyên bản do Hess & Eisenhardt sản xuất và có màu nguyên bản là xanh đen.
Vòng đời thú vị của chiếc xe Lincoln 1961 này vẫn tiếp tục thêm nhiều năm nữa sau vụ ám sát chấn động ở Dallas. Chỉ 5 tháng sau khi Tổng thống Kennedy qua đời, chiếc xe đã được tái tạo lại, được nâng cấp bằng vật liệu chống đạn và được gia nhập trở lại đội xe của tổng thống Mỹ.
Nó tiếp tục phục vụ thêm 13 năm nữa qua 3 đời tổng thống gồm Richard Nixon, Gerald Ford và Lyndon Johnson
"Đó là sự thật", Anderson giải thích. "Chiếc Lincoln được tân trang lại hoàn toàn sau vụ điều tra và các đời Tổng thống sau (tới Gerald Ford) đã sử dụng chiếc xe".
Hình ảnh ngay sau khi Tổng thống Kennedy bị bắn.
Tuy nhiên, khi chiếc xe trở lại nhiệm vụ chính thức, ký ức cũ vẫn hiển hiện. "Bản thân Lyndon Johnson luôn muốn chiếc xe được sơn màu đen",Anderson nói. "Tôi đã đọc được giai thoại ông không bao giờ cảm thấy thoải mái khi ngồi trên xe."
Lyndon Johnson và vợ Lady Bird cũng đi cùng đoàn xe với Tổng thống Kennedy khi đi qua các tuyến phố Dallas vào lúc ông Kennedy bị ám sát.
Số phận trước vụ ám sát
Chiếc Lincoln Continental được chuyển cho Kennedy vào tháng 6/1961 và màu nguyên bản của nó là màu xanh đen, được Mật vụ Mỹ đặt mật danh là "X-100".
Một đặc vụ nhảy lên từ sau xe để bảo vệ cho đệ nhất phu nhân Kennedy sau khi chồng bà bị ám sát.
Chiếc xe Continental mới thanh thoát này là "một sự chuyển mình lớn trong mỹ học những năm 1960, trẻ trung và mạnh mẽ", Anderson cho hay. "Tôi nghĩ chiếc xe vô cùng đặc biệt và rất hợp với tổng thống."
Mặc dù nhiều người ngạc nhiên khi biết chiếc xe nguyên bản không phải là chiếc xe bọc thép chống đạn nhưng so với mẫu tiêu chuẩn thì Lincoln đã được nâng cấp rất nhiều.
Chiếc xe do Hess & Eisenhardt ở Cincinnati, Ohio phát triển và đã được cắt làm đôi, được kéo dài thêm khoảng 1m, được lắp đặt đệm ghế và bọc da đặc biệt cùng với hệ thống PA, điện thoại radio, đèn, còi, cùng bậc bước xuống nhô ra thêm, cũng như nắm đấm cửa đặc biệt cho các đặc vụ.
Ghế ngồi sau của xe cũng có thể được nâng lên cao thêm hơn 30cm.
Cuối cùng, theo Anderson, việc nâng cấp chiếc xe Lincoln để cho Tổng thống dùng đã đẩy giá của một chiếc xe bình thường từ xấp xỉ 7.300USD lên khoảng 200.000USD. Nếu quy đổi ra tiền ngày nay, thì nó có giá vào khoảng 1,5 triệu USD.
Về mái của xe, Anderson cho hay, vào ngày xảy ra vụ ám sát, do không thấy có gì bất thường, người ta đã không dùng mái plastic trong hay các loại mái chống đạn khác.
Sau vụ ám sát, chiếc xe được đưa lên một chiếc máy bay chở hàng và được đưa đến Căn cứ quân sự Andrews ngay trong đêm ngày 22/11/1963, vài giờ sau khi thi hài của Tổng thống Kennedy được đưa về. Từ đây, chiếc xe được đưa thẳng tới gara của Nhà Trắng để được phân tích.
Ngày nay, kính chắn gió nguyên bản của xe, với những hư hỏng do các viên đạn ám sát gây ra, vẫn được giữ ở Cục lưu trữ quốc gia Mỹ tại Washington.
Sau khi cơ quan Mật vụ Mỹ, FBI, Ủy ban điều tra Warren, phân tích trong nhiều tháng, chiếc xe Lincoln được đưa trở lại công ty Hess & Eisenhardt để tân trang.
Sau vụ ám sát
Vì sao người ta không lặng lẽ loại bỏ hoặc phá hủy chiếc xe? Matt Anderson cho hay đơn giản là vấn đề thời gian và kinh tế. "Câu trả lời ngắn gọn là sự tiện lợi", ông cho hay. Vào thời điểm đó, tân Tổng thống cũng cần xe. "Có thể phải mất 3-4 năm để thiết kế và sản xuất một chiếc xe như thế", ông cho hay.
Thay đổi lớn đầu tiên đối với chiếc xe là: chống đạn và mái cố định. Xe đã được bọc titanium ở thân và quanh khu vực ghế ngồi phía sau. Sàn của xe cũng được tân trang với sàn thép có khả năng chống lựu đạn. Lốp không săm cũng được lắp đặt và các cửa sổ đều được trang bị kính chống đạn dày.
Trước vụ ám sát 6 tuần Tổng thống Kennedy trên chiếc xe cùng với Hoàng đế Ethiopia.
Chiếc xe cũng được lắp động cơ mới, khỏe hơn, để phù hợp với trọng lượng mới của xe khi được lắp đặt thêm các thiết bị mới. Khi quá trình tân trang hoàn thành, chiếc xe nặng khoảng 5.000kg, nặng gấp đôi so với chiếc Continental tiêu chuẩn.
Giá của nó cũng bị đội lên, xấp xỉ 500.000 USD (tương đương 3,8 triệu USD ngày nay).
Tuy nhiên không phải tất cả các đặc tính mới của xe đều tập trung vào vấn đề an toàn. Hệ thống điều hòa không khí thứ hai đã được lắp đặt ở thân xe, giúp cho người ngồi sau mát mẻ hơn.
Theo yêu cầu của những Tổng thống sau, chiếc xe cũng được chỉnh sửa thêm đôi chút nữa. Như Tổng thống Lyndon B. Johnson muốn cửa sổ sau cố định, không nâng lên hay hạ xuống được. Trong khi đó, Tổng thống Richard Nixon lại yêu cầu một chiếc cửa nhỏ trên mái xe để ông có thể đứng lên và vẫy chào từ trong xe. Cả hai điều chỉnh này đều vẫn còn thấy ở chiếc xe trưng bày tại viện bảo tàng ngày hôm nay.
Chiếc xe đã được nâng cấp và tân trang hoàn toàn sau vụ ám sát.
Một điều đặc biệt nữa là Nhà Trắng chưa bao giờ thực sự sở hữu chiếcLincoln. Chiếc xe thực chất là được thuê của công ty Ford Motor theo định kỳ năm một với giá tượng trưng.
Khi chính thức được nghỉ hưu ở Nhà Trắng, chiếc xe trở thành một trong khoảng 100 chiếc xe được trưng bày vĩnh viễn ở bảo tàng Henry Ford.
Theo Dantri
Chương trình nghe lén mang mật danh Minaret Ngày 25/9 vừa qua, Cơ quan lưu trữ quốc gia thuộc đại học George Washington (Mỹ) đã công bố các tài liệu giải mật về hoạt động của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) trong hai thập kỉ 1960, 1970. Theo đó, NSA từng thực hiện một chương trình do thám "ít vẻ vang và thậm chí còn bất hợp pháp" có...