Nét huyền bí trong lễ nhảy lửa của người Pà Thẻn
Được biết đến như một bản sắc riêng, lễ nhảy lửa cũng là lễ hội duy nhất người Pà Thẻn còn duy trì đến ngày nay.
Huyện Lâm Bình, Tuyên Quang có 12 dân tộc sinh sống, đặc biệt, dân tộc Kinh chỉ chiếm 2%, còn lại phần lớn là dân tộc Tày và Pà Thẻn. Người Pà Thẻn tại thôn Thượng Minh, xã Hồng Quang có tới 90 hộ với hơn 400 nhân khẩu.
Người Pà Thẻn có một nghi lễ đặc trưng riêng đó là lễ nhảy lửa thiêng liêng và huyền bí. Hàng năm từ ngày 16/10 âm lịch, các thầy cúng trong bản sẽ mở hội lễ nhảy lửa (cầu lửa). Dịp này, các thầy cúng chiêu mộ học trò, dạy các trò học làm thầy cúng để truyền nghề tới hết 15/1 âm lịch năm sau. Đây là thời khắc giao thời giữa năm cũ và năm mới với mục đích tạ ơn các thần sau một năm đã phù hộ cho dân bản có một năm mùa màng tốt tươi, canh tác thuận lợi, người dân trong bản khỏe mạnh không ốm đau bệnh tật.
Theo tiếng Pà Thẻn, lễ truyền nghề thầy cúng được gọi là “Póc Quơ”, hội Nhảy lửa được gọi là “Po dinh họn a tờ”. Ảnh: Thảo Nguyễn
Các thầy sẽ chỉ nhận học trò là nam giới người Pà Thẻn, kể cả trẻ em. Và đó phải là người được thần chọn, không phải ai đăng ký cũng được theo học. Trước đây nghi lễ còn kiêng không cho phụ nữ tới xem, nhưng theo thời gian các thầy cúng dần cho phép toàn bộ dân làng tham dự.
Nghi lễ được tổ chức ở một khoảng sân chung rộng ở bản và chia làm hai phần, cúng trước khi mặt trời lặn diễn ra khoảng 3-4 tiếng và nhảy lửa sau khi trời tối diễn ra trong khoảng 1 tiếng. Phần đầu là phần thầy cúng gọi mời thần và “âm binh” tới tham gia lễ và nhập vào các học trò.
Lễ được cúng bằng thủ lợn, nội tạng lợn và rượu từ chiều trước khi mặt trời xuống núi. Ảnh: Thảo Nguyễn
Thầy cúng sẽ ngồi trên một ghế gỗ dài, phía trước là dụng cụ cúng bằng thanh tre và sắt. Các học trò tham gia nghi lễ nhảy lửa sẽ ngồi thành hàng trên chiếu phía sau thầy cúng để cùng làm lễ.
Tối trời, lúc cơ thể của các học trò rung lên, đầu lắc liên tục là khi các vị thần đã nhập vào họ thành công. Họ sẽ có nhiều sức mạnh và chỉ trực tìm lửa để nhảy vào. Phần hai là nghi lễ nhảy lửa diễn ra từ khi mặt trời lặn, lúc này một đống lửa to đã được đốt sẵn cháy thành than đỏ rực ngay gần đó. Những người tham gia nhảy lửa sẽ thay nhau nhảy vào đống than hồng đó, dùng cả tay và chân trần để phá cho tới khi tàn lửa. Điều đặc biệt là sau khi nhảy vào lửa chân tay họ không hề bị bỏng, đau đớn hay trầy xước.
Một người tham gia lễ nhảy lửa cho hay, khi thần nhập vào người, họ có cảm giác rất lạnh và nhìn thấy lửa là rạo rực muốn lao vào. Càng nhảy vào lửa thì họ lại càng thấy sảng khoải, dễ chịu và ấm người. Khi nhảy họ nhắm mắt và được thần dẫn đi nên bản thân họ không biết là khi đó bản thân đang lao vào đống lửa.
Sau khi đống lửa tàn, thầy cúng chiêu mộ các học trò về lại hàng chiếu phía sau để kết thúc lễ. Họ cảm ơn các vị thần đã tới dự lễ chung vui cùng dân làng, cầu mong các vị thần phù hộ cho dân làng được ấm no, mạnh khỏe, hẹn lần nhảy lửa sau sẽ lại mời các thần xuống tham gia.
Kết thúc, thầy cúng sẽ giải lễ cho các học trò để họ trở về là người thường. Tương truyền, nếu thầy cúng không giải lễ mà để cho học trò ra về thì khi về tới nhà có đống lửa nào thì người đó cứ nhảy vào phá hết đống lửa đó.
Lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn có lịch sử lâu đời, được truyền lại qua nhiều thế hệ; thể hiện những yếu tố văn hóa, tín ngưỡng nguyên thủy sơ khai, niềm tin vào thế giới thần linh và những thế lực siêu nhiên. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đưa lễ hội này vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2012 nhằm bảo tồn và phát huy một lễ hội độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa và thu hút được đông đảo cộng đồng tham gia.
Video đang HOT
Dân tộc Pà Thẻn còn có tên là Pá Hưng, Tống; sử dụng nhóm ngôn ngữ Mèo -Dao. Người Pà Thẻn tập trung ở một số xã của tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Họ sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, với cây lương thực chính là lúa, ngô.
Dân tộc Pà Thẻn có nhiều dòng họ. Những người cùng họ coi nhau như những người thân thích có chung một tổ tiên, không được lấy nhau. Người Pà Thẻn có tục ở rể tạm thời, nếu gia đình không có con trai mới lấy rể về ở hẳn. Người ở rể phải thờ ma họ vợ, con cái một nữa theo họ bố, một nữa theo họ mẹ.
Phụ nữ Pà Thẻn. Ảnh: Thảo Nguyễn
Trang phục của người Pà Thẻn mang sắc đỏ rất nổi bật, được người phụ nữ Pà Thẻn dệt tay rất công phu và tỉ mẩn. Một bộ trang phục truyền thống của người phụ nữ Pà Thẻn mất từ 4-5 tháng để hoàn thành và đặc biệt phức tạp và cầu kỳ với vấn tóc quấn nhiều vòng trên đầu với nhiều mảng hoa văn đặc trưng.
Họ có truyền thống ăn Tết Nguyên đán, Tết sâu bọ và Tết tháng 9 (còn gọi là Tết quá chự pa). Tết sâu bọ của đồng bào Pà Thẻn cũng giống Tết Đoan Ngọ của người Kinh, nhưng họ cúng và ăn bánh sừng trâu truyền thống làm từ gạo nếp và lá nón. Tết tháng 9 là tết giã bánh giày từ 25 – 29/9 âm lịch để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng của người dân ở đây được bội thu.
Những phụ nữ người Mông cõng "nguồn sống" trên lưng
Người Mông vẫn hay nói với nhau rằng cưới được vợ như trong nhà vừa tậu được con trâu tốt.
Bởi người phụ nữ ấy sẽ trở thành lao động chính trong nhà, cuộc đời họ luôn gánh nặng sự nhọc nhằn trên lưng, từ lúc còn tấm bé cho đến cuối đời.
Sáng sớm, những con đèo từ Mèo Vạc qua thị trấn Đồng Văn (Hà Giang) vẫn chìm trong màn sương và mưa mờ trắng xóa. Đi xuyên qua màn sương đó, những người phụ nữ dân tộc Mông oằn lưng gánh những gánh cỏ, măng rừng, cả những nhánh củi tươi to nặng, men theo sườn núi xuống con đường cái để dẫn bộ về nhà.
Người phụ nữ dân tộc Mông luôn gồng gánh nỗi nhọc nhằn trên lưng - Ảnh: HÀ NGUYÊN
Cúi sạp cả người xuống để xốc lại bó củi lớn trên lưng, Vàng Thị Mén cười nói bằng giọng Kinh lơ lớ: "Ngày nào cũng đi như này nên quen rồi. Mệt thì mệt nhưng từ nhỏ đã gắn với bao thứ trên lưng, lấy chồng sinh con rồi còn phải làm nhiều hơn để nuôi chồng nuôi con nữa".
Vàng Thị Mén năm nay mới hơn 20 tuổi, nhưng sự lam lũ hằn sâu lên từng đường nét trên mặt không khác gì người phụ nữ đã qua tuổi xuân. Bàn tay đầy những vết chai sạn, những vết thương do cỏ sắc rạch thành từng vệt dài trên mu bàn tay nổi đầy gân xanh. Lấy chồng từ năm 14 tuổi, đến nay chỉ mới 23 tuổi mà Mén đã có 4 người con, 2 trai 2 gái.
Cũng như nhiều phụ nữ người Mông ở Mèo Vạc (Hà Giang), Mén phải tập cõng đồ trên lưng từ lúc còn nhỏ. Người Mông vẫn hay nói với nhau rằng cưới được vợ như trong nhà vừa tậu được con trâu tốt. Bởi người phụ nữ ấy sẽ trở thành lao động chính trong nhà, cuộc đời họ luôn gánh nặng sự nhọc nhằn trên lưng, từ lúc còn tấm bé cho đến cuối đời.
Đi dọc các cung đèo Hà Giang, hay là đi sâu vào từng thôn bản, không khó để bắt gặp hình ảnh người phụ nữ Mông lúc nào cũng mang chiếc lu cở (gùi) trên lưng. Tuổi đời càng lớn, những gì đựng trong lu cở lại ngày một kềnh càng. Những gánh nặng khiến cho lưng họ lúc nào cũng rạp xuống, gồng mình trên những con đường dốc vòng vèo của núi rừng phía Bắc. Khi mặt càng gần đất thì tuổi đời càng nhiều thêm và sự nhọc nhằn gắn liền với tấm lưng gồng gánh.
Chiếc lu cở (gùi) trở thành người bạn thân thiết trên lưng người phụ nữ Mông - Ảnh: HÀ NGUYÊN
Sống ở những vùng núi có độ cao trên 1000 mét, đường sá hiểm trở, không thuận lợi cho các phương tiện vận tải di chuyển, người phụ nữ Mông nghiễm nhiên trở thành người vận chuyển thay vì là người đàn ông làm những công việc nặng nhọc này
Lấy chồng sinh con từ lúc tuổi đời còn rất sớm, không ít người phụ nữ vừa phải cáng đáng việc nhà vừa phải trông con, những đứa trẻ theo chân mẹ lên nương rẫy, lên núi hái rau từ lúc còn bé xíu
Sùng Thị Mỉ mới 18 tuổi nhưng đã lấy chồng và có 2 đứa con. Vì chồng cô cũng là người trong họ hàng nên khi sinh con ra, những đứa trẻ bị mắc chứng bệnh bạch tạng. Ở những vùng núi, vùng cao, điều kiện học tập, tiếp cận thông tin còn hạn chế, vậy nên đến nay dân tộc Mông vẫn là một trong những dân tộc có tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết cao nhất toàn quốc. Thực tế này đang khiến người phụ nữ Mông tiếp tục chậm tiến hơn phụ nữ của các dân tộc khác
Dọc đường rẻo cao Hà Giang, không khó để bắt gặp những người phụ nữ Mông lẫm lũi đi, dồn sức trên đôi chân để cõng mọi thứ, trên lưng họ lúc nào cũng là củi, là búp măng mới hái trên nương, có cả những bì lớn đựng cát, vật liệu xây dựng...
Họ thường đi rất nhanh dù là trong sương mù dày đặc, giữa trời nắng chang chang, hay bất chấp những cơn gió rét cắt da cắt thịt - Ảnh: HÀ NGUYÊN
Có lẽ vì vậy mà người phụ nữ Mông vẫn hay nói cuộc đời của họ gắn liền với con dốc cuộc đời - Ảnh: HÀ NGUYÊN
Khi mặt càng gần đất thì tuổi đời càng nhiều thêm và sự nhọc nhằn gắn liền với tấm lưng gồng gánh - Ảnh: HÀ NGUYÊN
Những gánh nặng theo họ cho đến lúc gối mỏi chân chùng - Ảnh: HÀ NGUYÊN
Cô Sủng Thị Sy (39 tuổi, Mậu Duệ, Yên Minh, Hà Giang) chuẩn bị đi lên con đường mòn lên nương rẫy. "Chồng lúc nào giúp được thì giúp thôi, chứ anh ấy uống rượu suốt ngày" - cô chia sẻ
Những đứa trẻ từ nhỏ đã làm quen với chiếc gùi sau lưng. Đi học về, chúng phải tập quen với chuyện làm nương rẫy, hái rau rừng, không có thời gian cho việc học ở nhà
Yogyakarta - vẻ đẹp bất tận Nói đến du lịch Indonesia, người ta thường nghĩ ngay tới đảo Bali yên tĩnh hay Jakarta sôi động. Nhưng, địa điểm khiến cho du khách ngỡ ngàng nhất có lẽ là Yogyakarta, cái nôi của nền văn minh Java với những công trình tôn giáo huyền bí. Ngôi đền Borobudur. Ngưng đọng ở Yogyakarta Một chuyến đi đến Yogyakarta gần như là...