Nên biết tự bảo vệ mình
Phần lớn những người lao động tự do đều chấp nhận dùng sức lao động và sự an toàn của bản thân để đổi lấy miếng cơm, manh áo. Chính sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người lao động là vấn đề đáng suy nghĩ đối với xã hội.
Hầu hết lao động tự do đều thiếu kỹ năng để tự bảo vệ mình và
thường xuyên làm việc trong môi trường thiếu an toàn
Thiếu hiểu biết
Tình trạng thiếu kỹ năng về an toàn lao động, không được ký kết hợp đồng lao động là tình trạng khá phổ biến đối với những người lao động tự do ở những đô thị lớn hiện nay. Cũng phải nói thêm rằng, ngay sau khi thông tin về vụ hỏa hoạn xảy ra tại công trình cải tạo quán bar ở số 9 Trần Thánh Tông, quận Hai Bà Trưng được đăng tải, qua tiếp xúc, PV Báo ANTĐ đã nhận được không ít thắc mắc của một số người lao động ngoại tỉnh đang làm lao động tự do tại Hà Nội. Nhiều người tỏ ra khá lo lắng bởi lâu nay, những yếu tố như an toàn lao động, trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động đang bị lờ đi.
Nhiều người ngoại tỉnh ra Hà Nội làm lao động tự do, ai thuê gì làm nấy, chứ chưa một lần được ký vào bản hợp đồng lao động. Có những công việc được thuê cả năm trời, nhưng chủ lao động cũng chỉ trả khoản thù lao ít ỏi tính theo ngày công và không có chế độ đãi ngộ nào khác. Tai nạn, thương tích trong lao động là chuyện thường tình.
Quy định vẫn còn thiếu
Về thực trạng này, luật sư Nguyễn Thanh Hà – Công ty Luật S&B nhận xét, hiện nhiều chủ lao động cố tình lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người lao động, nhất là lao động phổ thông, để tìm cách trốn tránh nghĩa vụ đối với người lao động như không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… và các lợi ích khác. Tình trạng người lao động không được nghỉ phép, không được đảm bảo các quyền lợi khác theo luật lao động là phổ biến. Thậm chí, nhiều chủ lao động còn sẵn sàng chuyển nhượng người lao động cho đơn vị khác để thu lời, thậm chí đuổi người lao động ra đường mà không quan tâm đến quyền lợi hợp pháp của họ.
Video đang HOT
Ở thời điểm hiện tại, phần lớn lao động tự do phải chấp nhận đánh đổi sức lao động bởi không có chuyên môn kỹ thuật. Tuy làm việc vất vả nhưng mức thu nhập của họ rất thấp. Tỷ lệ người lao động không được ký hợp đồng lao động mà nguyên nhân từ phía người sử dụng lao động chiếm con số không nhỏ. Khi không được ký hợp đồng lao động, quyền lợi của người lao động sẽ rất bấp bênh, thậm chí khi xảy ra tranh chấp phần lớn thiệt thòi thuộc về người lao động. Do vậy, người lao động cũng cần có kiến thức nhất định để tự bảo vệ mình như tìm hiểu kỹ công việc và quan trọng là yêu cầu người sử dụng lao động ký hợp đồng lao động với mình. Đây sẽ là căn cứ pháp lý khi xảy ra tranh chấp hay rủi ro trong quá trình làm việc.
Cũng theo luật sư Nguyễn Thanh Hà, trong Luật Lao động và một số văn bản có liên quan không hề có những điều khoản quy định cho những đối tượng lao động tự do. Đây là một trong những hạn chế trong việc quản lý, sử dụng và đảm bảo quyền lợi cho đối tượng lao động này. Về vụ việc đáng tiếc xảy ra tại quán bar ở Zone 9 mới đây khiến 6 người lao động bị mất mạng, luật sư Nguyễn Thanh Hà nhận định, trước hết bản thân những nạn nhân này là những lao động tự do, họ không ý thức được việc phải chấp hành những quy định về an toàn lao động và công tác phòng chống cháy nổ. Khi thuê lao động, chủ sử dụng lao động không quan tâm tới việc đào tạo kỹ năng an toàn lao động cho công nhân nên đã để xảy ra tai nạn đáng tiếc này. Do vậy, trách nhiệm một phần thuộc về người sử dụng lao động.
Để đảm bảo tính minh bạch, bình đẳng của thị trường lao động, cùng với sự hoàn thiện, bổ sung các quy định trong hệ thống pháp luật, các cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc để xử lý nghiêm minh những người sử dụng lao động bất hợp pháp và có những biện pháp thiết thực nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là người lao động tự do.
Theo ANTD
Được cộng dồn thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp
Để bảo đảm quyền lợi tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), Dự thảo Luật Việc làm quy định nguyên tắc "cộng dồn" các khoảng thời gian đóng BHTN (liên tục hoặc không liên tục) để xét hưởng BHTN...
Người lao động được cộng dồn thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp để hưởng trợ cấp khi đã đóng đủ 12 tháng
Ngày 16/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Việt làm, với những điều khoản được điều chỉnh có lợi hơn cho người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Theo Dự thảo luật, đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm ngươi lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc với thời hạn như: Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng.
Trong trường hợp người lao động giao kết và đang thực hiện hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì người lao động và người sử dụng lao động của hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Điêu 44 của Luật quy định, người sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tai tô chưc bao hiêm xa hôi trong thời hạn 30 ngày kể từ ngay người lao động bắt đầu làm việc.
Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo mức quy định tại điểm b khoản 1 Điều 57 của Luật này và trích tiền lương của từng người lao động theo mức quy định tại điểm a khoản 1 Điều 57 của Luật này để đóng cùng một lúc vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Căn cứ vào tình hình kết dư của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Nhà nước chuyển kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước vào Quỹ theo mức do Chính phủ quy định tại khoản 3 Điều 59 của Luật này.
Đặc biệt, một điểm mới rất có lợi cho người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp, đó là thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại điều 45. Theo đó, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp để xét hưởng bảo hiểm thất nghiệp là tổng các khoảng thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp liên tục hoặc không liên tục được cộng dồn từ khi bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp cho đến khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật về lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về viên chức mà chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Đóng bảo hiểm thất nghiệp trên 36 tháng được "thưởng" trợ cấp
Để tránh lạm dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, khoản 2 Điều 49 của dự thảo Luật quy định đối tượng lao động này được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp khi đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động khác với đối tượng lao động giao kết hợp đồng không xác định thời hạn hoặc hợp đồng xác định thời hạn (từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng) được hưởng BHTN khi đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng.
Theo đó, Điều 50 quy định, mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật lao động đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.
Thời gian hương trơ câp thât nghiêp đươc tinh theo sô thang đong bao hiêm thât nghiêp, cư đong đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó cứ đóng đủ thêm 12 tháng thi đươc hương thêm 1 thang trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Sau khi chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp thì thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp trước đó không được tính để hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc tiếp theo của người lao động.
Trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, ngươi lao đông nôp hô sơ hương bao hiêm thât nghiêp tai trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm cấp tỉnh thành lập.
2.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày trung tâm dịch vụ việc làm tiếp nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ra quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp; trường hợp không đủ điều kiện để giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp thì phải trả lời bằng văn bản cho người lao động.
Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày cơ quan bảo hiểm xã hội nhận được quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16 kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định.
Xuân Hưng
Theo_VnMedia
Một số điểm mới của Bộ Luật Lao động 2012 Những điểm mới của Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã được thông qua năm 2012 (gồm 17 chương và 242 điều) có hiệu lực từ 1.5.2013 so với Bộ luật Lao động năm 1994. Thứ nhất: Về chương việc làm Thay vì quy định các hành vi cấm tại điều 19 của Bộ luật Lao động hiện hành để cấm các hành...