Nem nắm gói trọn bao nhớ thương
Tết về, nhà tôi ngoài những món ăn đậm đà nét cổ truyền người Bắc như bánh chưng xanh, hành muối, canh măng miến mộc nhĩ, giò lụa, chả quế… thì còn một món nữa không bao giờ thiếu trên mâm cơm, ấy chính là món nem nắm.
Xuân mới sắp gần kề, đâu đó ven đường ta bắt gặp những bông mận trắng xóa xen lẫn sắc hồng của những cành đào phai. Trẻ con thêm tuổi mới nhìn chúng háo hức lòng vui chi lạ.
Nhưng năm mới đến cũng báo hiệu mái tóc mẹ thêm nhiều sợi bạc, khóe mắt mẹ điểm thêm nhưng vết chân chim in hằn theo năm tháng.
Tết về, nhà tôi ngoài những món ăn đậm đà nét cổ truyền người Bắc như: bánh chưng xanh, hành muối, canh măng miến mộc nhĩ, giò lụa, chả quế,… thì còn một món nữa không bao giờ thiếu trên mâm cơm Tết nhà tôi, ấy chính là món nem nắm.
Món ăn giản dị như chính người làm ra nó, ngày còn sống bố chính là người thổi hồn và nắm giữ bí quyết để làm nên những chiếc nem nhỏ xinh được tạo ra từ đôi tay cần mẫn, gói bọc biết bao niềm yêu thương, thành kính của con cháu dâng lên tổ tiên những ngày đầu xuân mới của đất nước, dân tộc.
Tôi chẳng biết món ăn dân dã ấy nó ra đời trong ngôi nhà đơn sơ mộc mạc của gia đình tôi từ khi nào. Chỉ biết rằng, ngay từ khi biết nhận thức, cứ Tết đến xuân về là món ăn giản đơn, chất phác ấy đã là một phần không thể thiếu trong mâm cỗ Tết nhà tôi.
Mà kể cũng lạ, thành phần tạo nên món ăn đó nó đâu phải từ sơn hào hải vị gì cho cam. Tất cả nguyên liệu đều là những thứ dễ kiếm tìm, có khi còn là những thứ bị thừa dễ bỏ đi (như bì lợn), nhà nhà người người đều có thể làm, nhưng với mấy chị em tôi, chiếc nem ngon nhất vẫn là chiếc nem được chính bố tôi tạo ra từ căn bếp nhỏ đặc quánh mùi khói.
Để có những chiếc nem nắm chuẩn vị thân quen thì đúng cái ngày bố gói giò xào (giò mỡ) chừng 27 Tết là y rằng khi đi chợ bố dặn mẹ xin thêm người bán hàng ít bì lợn. Cái phần mà có khi cô bán hàng cho thêm vào cái làn cơ man nào thịt mẹ mua gói giò hay chuẩn bị gói bánh chưng.
Mẹ không quên mua thêm ít thịt nạc và trưa ấy tôi cùng cu út đứa bóc tỏi, đứa lau lá dong vừa được chị rửa sạch để ráo nước. Trong bếp chị gái đang rang gạo cho đến khi vàng ươm như màu nắng óng ả trưa hè và đem đi xay, gạo xay xong được gọi là thính. Nguyên liệu mẹ mua về được tự tay bố sơ chế.
Bố tỉ mẩn, cẩn trọng từng chút ngồi nhổ hết những chiếc lông lợn còn sót lại trên miếng bì. Sau đó bố đem luộc chín tới những miếng bì ấy trên bếp. Đợi khi bì lợn đã đủ độ chín theo ý là bố vớt ra để nguội và thái thật mỏng và đều tay.
Tỏi bóc vỏ băm nhuyễn là nguyên liệu hoàn hảo kết hợp cùng thính tạo nên độ chua dịu vừa ăn cho món nem, bì lợn thái mỏng điểm xuyến tùy vào khẩu vị người thưởng thức mà cho nhiều bì hay ít, các loại gia vị như bột canh, mì chính.
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu làm nem, bố sai tôi rửa sạch chiếc cối đá nặng trĩu tay. Ngày trước tôi đã từng thắc mắc với bố: “ Sao bố không mang thịt đi xay cho nhanh, bố giã thịt làm gì cho mất thời gian và công sức?”.
Video đang HOT
Nhưng bố nói: “Xay thịt thì ra chợ bố cũng mua được món nem này, nhưng để làm món nem chua của ông nội các con thì thịt giã tay cho nhuyễn là ngon nhất, đó mới là công đoạn quyết định độ mịn, rèn sự nhẫn nại của người làm”.
Cối đá sau khi tôi rửa sạch, để ráo nước cho thật khô bố liền cho thịt nạc để sống vào giã nhuyễn, giã đến khi chày gần như bị độ nhuyễn của thịt làm cho nặng tay vít chiếc chày xuống là công đoạn giã thịt đã xong.
Sau đó bố cho thịt vào chiếc xoong rộng miệng trộn cùng bì lợn, nêm gia vị vừa ăn, và cuối cùng là trút toàn bộ tỏi đã băm nhỏ cùng thính vào bóp cho đều tay đến khi cảm nhận bột thính đã hòa trộn làm một cùng với thịt là công đoạn làm nem đã gần như hoàn tất.
Cuối cùng đến công đoạn người khéo tay nhất nhà là mẹ tôi thực hiện, mẹ chia đều các nắm nem vừa lòng bàn tay người làm đem gói vào lá dong hoặc lá chuối đã lót sẵn lá đinh lăng hay lá sung, lấy lạt buộc lại và treo ở chỗ thoáng gió là món nem nắm đã hoàn tất.
Để nem khoảng từ 2 đến 3 ngày tùy vào thời tiết (lạnh nem lên men chậm hơn thì độ chua cũng dịu hơn là thời tiết ấm). Thịt nạc được gặp thính chính là nguyên tắc làm cho thịt từ sống mà chuyển sang chín. Đó chính là điểm nhấn ấn tượng của món nem nắm cổ truyền theo công thức của gia đình tôi.
Món nem không thể thiếu ngày Tết của gia đình tôi
Ngày Tết khi mà nhà nhà đều trữ những thức ăn giàu năng lượng, độ béo và khó tiêu. Có được món nem chua nắm chua dịu ăn ghém cùng lá đinh lăng sẽ cảm nhận độ bùi bùi nơi cuống họng.
Chấm món nem chua nắm với nước mắm chua ngọt hay tương ớt đều rất hợp. Món ăn không gây ngán, mà trái lại còn là thành phần cân bằng các loại thức ăn khiến người thưởng thức thấy dễ tiêu mà còn cảm nhận được sự thanh tao, nhẹ nhàng, vừa bình dị lại thân quen.
Với gia đình tôi, mâm cơm đoàn viên không thể thiếu món nem chua nắm ghém lá đinh lăng hay lá sung ấy.
Giờ đây, “người thổi hồn và giữ linh hồn” món nem nắm đã đi xa nhưng mâm cơm Tết của gia đình tôi không bao giờ thiếu món ăn gợi bao ký ức về người đã tạo ra nó cũng như thổi bao yêu thương vào miền ký ức những thành viên của gia đình.
Để rồi, sau 13 mùa xuân đã đi qua, trong mâm cơm đón khoảnh khắc giao thừa đầu tiên của năm mới, món nem nắm ghém lá đinh lăng vẫn luôn được đặt ở một vị trí trang trọng thể hiện tình yêu sự tưởng nhớ của chúng tôi tới bố.
Đêm giao thừa, bên cạnh những món ăn cổ truyền của gia đình, thưởng thức món nem nắm gợi nhớ người đi xa khóe mắt mẹ có gì rưng rưng, còn chúng tôi – những đứa con của mẹ cùng các cháu của bà vừa thưởng thức món nem nắm vừa nghe mẹ kể chuyện “ngày xưa”. Bất giác trong tôi có gì đó nghèn nghẹn bởi những kỷ niệm xưa cũ lại ùa về.
Những kỷ niệm nuôi lớn tuổi thơ mấy chị em tôi. Ở đó có cái dáng gầy gầy xương xương của bố cùng nụ cười hiền mỗi độ Tết đến xuân về. Ở đó giọng nói của bố lại cất lên: “Mẹ mày đi chợ nhớ mua nguyên liệu để tôi làm món nem nắm”.
Cỗ xưa làng cổ Bát Tràng: Hương vị tinh hoa ẩm thực truyền thống
Ít ai biết rằng làng Bát Tràng không chỉ nức tiếng với nghề gốm lâu đời mà còn là cái nôi của ẩm thực truyền thống.
Nói vùng đất ấy "mỗi người dân là một nghệ nhân ẩm thực" quả không ngoa chút nào.
Một mâm cỗ đơn giản nhất của người làng Bát Tràng. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam )
Nhắc đến làng nghề Bát Tràng, nhiều người dường như chỉ biết đây là một trong những vùng tinh hoa nghề gốm lâu đời của Việt Nam, với bề dày về văn học, tính gia tộc và cả tâm linh, mà ít biết rằng vùng đất ấy còn nổi tiếng bởi văn hóa ẩm thực truyền thống và "mỗi người dân là một nghệ nhân ẩm thực." Nói thế tuy có phần "hơi quá" nhưng thực tế lại không hề "ngoa" chút nào.
Hương vị Tết xưa
Giống như cỗ vùng đất Kinh Kỳ, mâm cỗ Tết cổ truyền trong các gia đình giàu có ở làng Bát Tràng gọi là cỗ bát trân (6 bát 8 đĩa) tượng trưng cho phát tài phát lộc, còn gia đình trung lưu và bình dân thường biện cỗ 4 bát 4 đĩa tượng trưng cho bốn mùa và bốn phương.
Ngoài các món phổ biến không thể thiếu là đĩa nem rán, gà luộc, miến xào, chim câu hầm, xu hào xào mực (có thể thay bằng đĩa hạnh nhân vào ngày đầu năm), thêm giò lụa, chả quế, canh bóng... thì " đặc sản" cỗ làng gốm không thể thiếu canh măng mực - thương hiệu có mặt trong mọi bữa cỗ quan trọng, nhất là mâm cỗ 30 Tết, để nhận diện cỗ Bát Tràng.
Nghệ nhân ẩm thực Nguyễn Thị Lâm. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam )
Với người làng "bên kia sông Hồng," bánh chưng trong cỗ tất niên chính là món ăn sau cùng, giống như món tráng miệng, ăn kèm với chè kho (còn cỗ nấu mùa Hè sẽ tráng miệng với xôi vò chè đường).
Những món ấy, mỗi món là một hương vị, từ thanh nhã đến đậm đà làm tròn đầy mỹ vị người thưởng thức và tạo nên bản sắc riêng có của mâm cỗ Tết người dân làng gốm. Để làm nên hương vị khác biệt của món ăn, người Bát Tràng chọn nguyên liệu vô cùng tinh tế, kỹ lưỡng. Và một trong những người đang nắm giữ nhiều "bí kíp" ẩm thực nhất ở làng gốm ven sông Hồng ấy là nghệ nhân ẩm thực Nguyễn Thị Lâm, 77 tuổi.
Bà Lâm vốn sinh ra trong một gia đình nức tiếng ở Hàng Than, Hà Nội đã hơn nửa thế kỷ về làm dâu và sống dưới mái nhà kiểu Tây có cùng năm khởi công với cầu Long Biên (năm 1897). Người nghệ nhân đến giờ vẫn không quản ngại ngày ngày truyền dạy tinh hoa ẩm thực Hà Thành và đặc biệt là mâm cỗ Tết cổ truyền cho con, cháu.
Ngay từ nhỏ, bà Lâm đã được mẹ và các dì dạy nấu những món ăn truyền thống của người Hà Nội và đam mê nấu nướng cứ thế ngấm vào máu bà, tự nhiên như hơi thở.
Hơn nửa thế kỷ trước, bà về làm dâu trưởng trong một gia đình quyền thế ở Bát Tràng. Những ngày lễ, Tết, mâm cỗ gia đình đều do bà quán xuyến. Các món ăn qua bàn tay bà Lâm chế biến có hương vị tinh tế và mang lại ấn tượng khó quên.
Du khách thăm quan ngôi nhà cổ của gia đình nghệ nhân Nguyễn Thị Lâm, được xây dựng cùng thời điểm với cây cầu Long Biên. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam )
Cũng là những nguyên liệu gần gũi quen thuộc, nhưng cách chế biến cầu kỳ, kỹ lưỡng và sự kết hợp độc đáo của gia vị khiến ẩm thực "made by bà Lâm" thực sự rất khác biệt. Điều khác biệt ấy còn bởi cái tâm của người đứng bếp dù nấu cho khách nhưng giống như nấu ăn cho những người thân, đều tận tuỵ và hết lòng.
"Bí kíp" nghệ nhân
Ai đã từng thưởng thức mâm cỗ truyền thống Bát Tràng hẳn sẽ ấn tượng đậm sâu. Hồn cốt làm nên thương hiệu của ẩm thực làng nghề chính là món canh măng mực.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Lâm nắm giữ nhiều bí truyền ẩm thực của làng Bát Tràng tiết lộ để chế biến món canh măng mực chuẩn vị, phải dùng măng khô Thanh Bì (đặc sản vùng Yên Bái), mực cái Thanh Hóa (mực cái đuôi tròn, còn mực đực đuôi dài) vì thịt mềm và cho độ ngọt nước cao.
Khâu sơ chế nguyên liệu cũng thực cầu kỳ. Dùng rượu gừng tẩy mùi tanh của mực trước khi nướng vàng đều bằng than hoa, đem giã và xé cho tơi bông rồi xào cùng chút đường kính và muối tinh cho ra màu nâu cánh gián, có vị ngọt, giòn, thơm là chuẩn (có thể kết hợp cùng thịt lợn thăn cắt khúc chừng 7 phân, đồ chín rồi cũng tước ra như sợi măng, sợi mực, ướp mắm muối phi thơm với hành tím, xào săn).
Món canh mực nhìn đơn giản vậy nhưng chế biến vô cùng kỳ công, tinh tế. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam )
Theo bà Lâm, khi xào, nghe sợi mực kêu "lách tách" là đủ lửa, nếu già quá mực dễ gãy, mà non quá lại dai. Đặc biệt, phần nước phải dùng nước luộc gà ninh cùng tôm he, nước hầm xương lợn để làm dậy độ ngọt, thơm... thì món canh măng mực mới tròn vị.
Măng phải chọn loại vầu khô, vàng ươm, dày mình, dài gióng, ngâm trong nước sạch khoảng một giờ, sau đó cọ sạch rồi đem hong khô. Tiếp tục loại bỏ phần măng già gần gốc và phần quá non ở búp, chỉ giữ lại vài ba gióng giữa bánh tẻ. Lọc hết các mấu đốt, ngâm hai ngày trong nước lã cho mềm dẻo để có thể tước măng thành những sợi nhỏ như sợi tăm hương, rồi đem ngâm trong nước lạnh khoảng một giờ, vớt ra luộc nước sôi ba lần (chỉ để sôi nổi tăm là đổ ra rửa lại rồi luộc tiếp). Măng luộc xong mới được đem ướp mắm, muối đợi cho ngấm rồi phi hành mỡ xào săn.
Các nguyên liệu măng, mực, thịt sau khi xào riêng sơ chế thì xào lẫn với nhau cho quyện vị, rồi mới nổi lửa thả vào nồi nước dùng, ninh chừng 45 phút. Chỉ vậy thôi vì nếu ninh lâu măng nhừ, mực nát và thịt bở. Một món ăn tưởng chừng đơn giản nhưng thực là tinh túy của văn hóa ẩm thực.
Bát canh măng mực nóng hôi hổi khi dọn lên bàn ăn phải đủ độ giòn sần sật của măng, ngọt thơm của sợi mực, vị đậm đà của nước dùng. Tất cả hương và vị hài hòa, cân bằng vị giác, khiến ăn một miếng ngon cũng nhớ lâu.
Chính những hương vị khó quên này làm cho Bát Tràng, dẫu trải qua bao thăng trầm và ngày càng đổi thay, song ẩn dưới những nếp nhà cổ nhuốm màu thời gian, sâu trong những con ngõ nhỏ cổ kính, tinh hoa ẩm thực cổ truyền vẫn được các bậc cao niên ở của làng âm thầm gìn giữ và trao truyền cho hậu bối, trở thành niềm tự hào của người dân nơi đây.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Lâm nắm giữ nhiều bí quyết nấu món ngon của người Hà Nội. (Ảnh: Mai Mai/Vietnam )
Thịt lợn nấu đông Có dạo thịt lợn ở Ta vào dịp Tết đắt hơn cả thịt bò bên Mỹ. Thật là rất ái và ngại cho bà con ở quê nhà, vì thịt lợn là không thể thiếu để chế biến nhiều món vào dịp Tết này... ...tỷ dụ như: Giò lụa, chả quế, thịt lợn để gói bánh chưng, nhân làm nem, bóng bì lợn...rồi...