Nâng ngực: Phương pháp hút mỡ đã bị bỏ từ lâu
Bơm ngực bằng mỡ có vẻ như đang là một trào lưu ở nhiều thẩm mỹ viện, nhưng theo các chuyên gia đầu ngành, thực chất đây là một phương pháp đã rất cũ.
Trong khi đó, các cơ sở thẩm mỹ tư nhân không có đủ điều kiện để xử lý những sự cố bất ngờ xảy ra nhưng vì lợi nhuận vẫn vô tư bất chấp tính mạng khách hàng.
“Bơm mỡ”- một vốn, bốn lời!
ThS Nguyễn Đình Minh – Phó trưởng Khoa Phẫu thuật tạo hình (Bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội) cho rằng, phẫu thuật thẩm mỹ vẫn là một xu thế tất yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, để có những ca phẫu thuật thẩm mỹ an toàn cần căn cứ vào 2 vấn đề chính: Điều kiện thực hiện phẫu thuật và việc chỉ định kỹ thuật phải chính xác.
Đối với kỹ thuật nâng ngực, hiện các bệnh viện lớn thường sử dụng túi gel hoặc nước biển và các chất làm đầy trong y tế đã được cho phép để nâng ngực cho khách hàng. Đây là những sản phẩm do các công ty có uy tín sản xuất, cung cấp, đã được kiểm chứng nghiêm ngặt.
Một ca phẫu thuật thẩm mỹ tại Bệnh viện Xanh Pôn (Hà Nội). Ảnh do bệnh viện cung cấp.
“Nâng ngực là kỹ thuật tương đương với các kỹ thuật “đại phẫu”. Với một ca nâng ngực thì đầu tiên là phải thực hiện gây mê. Kỹ thuật gây mê chỉ có các bệnh viện mới đủ tiêu chuẩn. Chỉ cần một động tác sai rất nhỏ cũng có thể gây ra những tai biến bất ngờ. Trong khi đó, các cơ sở tư nhân không đủ trang bị cả về các thiết bị lẫn nhân lực để giải quyết các tình huống xảy ra”. ThS Nguyễn Đình Minh – Phó trưởng Khoa Phẫu thuật tạo hình (Bệnh viện Xanh Pôn). Ảnh: H. Phương
Theo ThS Nguyễn Đình Minh: Bệnh viện Xanh Pôn chưa bao giờ sử dụng phương pháp nâng ngực bằng cách hút mỡ bụng để bơm lên ngực. Đây là phương pháp các bệnh viện khác cũng không áp dụng mà chỉ được các cơ sở thẩm mỹ tư nhân tiến hành. Phương pháp này từ lâu đã được các bác sỹ khuyến cáo là không nên thực hiện vì gây ra những nguy hiểm nhất định, lại không đạt hiệu quả về thẩm mỹ. Trong trường hợp không có các biến chứng thì lượng mỡ được lấy từ bụng bơm lên ngực sau một thời gian cũng tự tiêu đi, làm mềm bầu ngực.
ThS Minh cho biết, anh có đọc được trong y văn về phương pháp bơm ngực bằng mỡ tự thân nhưng bản thân anh đã từng đi nhiều nước và hoàn toàn không thấy nước nào sử dụng phương pháp bơm ngực này! Đây là phương pháp dễ gây nhiễm trùng, tiềm tàng nhiều nguy cơ, đặc biệt là nguy cơ bị tắc mạch khi hút và bơm mỡ. Đây có thể là nguyên nhân gây tử vong của khách hàng nữ tại cơ sở thẩm mỹ viện Cát Tường.
Với phương pháp hút mỡ bụng bơm lên ngực, nhiều cơ sở thẩm mỹ tư nhân đã đánh lừa khách hàng khi đưa ra những “hiệu quả tuyệt vời” như giảm mỡ bụng, nâng cao bầu ngực bằng chính mỡ của cơ thể. Với phương pháp này, chủ các cơ sở thẩm mỹ vừa không mất tiền mua túi ngực, vừa có thể thu 2 lần tiền phẫu thuật bao gồm hút mỡ từ bụng và bơm mỡ lên ngực.
Chỉ có các bệnh viện mới đạt tiêu chuẩn thực hiện
Theo ThS Minh, trong y học, các tai biến trong quá trình phẫu thuật là điều khó nói trước. Tuy nhiên, với các điều kiện về kỹ thuật cũng như đội ngũ bác sỹ được đào tạo chuyên nghiệp thì phẫu thuật nâng ngực thường không có tai biến và các biến chứng nếu có xảy ra thường là do chuyên gia không thực hiện đúng quy trình.
Trung bình mỗi tuần, Khoa Phẫu thuật tạo hình (Bệnh viện Xanh Pôn) phẫu thuật khoảng 10 ca nâng ngực cho khách hàng nhưng từ nhiều năm nay chưa hề có bất cứ một biến chứng nào xảy ra. Sự cố với kỹ thuật nâng ngực tại bệnh viện chỉ là khách hàng bị chảy máu. Tuy nhiên, sự cố nhỏ này đều trong giai đoạn khách hàng nằm lưu trú tại viện và được xử lý kịp thời, không để lại hậu quả gì.
Tại khoa phẫu thuật tạo hình của các bệnh viện lớn bao giờ cũng đưa ra những quy ước khá cẩn trọng, chặt chẽ đối với khách hàng có nhu cầu nâng ngực. Trước hết, những người có nhu cầu này phải đến khám và mất 1 ngày dành cho các loại xét nghiệm như: Xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu, chức năng gan, thận, tim mạch; chụp tim – phổi…
Sau khi khách hàng đã làm tất cả các xét nghiệm và đạt yêu cầu mới được khám gây mê. Các bác sỹ xét nghiệm và bác sỹ gây mê sẽ thảo luận xem bệnh nhân có đủ điều kiện để phẫu thuật nâng ngực hay không? Đối với các trường hợp mắc các bệnh như lao phổi, tim mạch, huyết áp, tuyệt đối các bác sỹ sẽ không nhận thực hiện nâng ngực.
Với các trường hợp đủ tiêu chuẩn về sức khỏe sẽ được thăm khám thêm một lần trước khi mổ. Khách hàng phải nhịn ăn ít nhất là 6h đồng hồ trước khi thực hiện phẫu thuật.
Hai loại túi ngực được sử dụng trong phẫu thuật đặt túi ngực
Video đang HOT
Túi nước biển: Là loại túi rỗng, có van để bơm nước biển sau khi đặt túi vào trong cơ thể nên có ưu điểm là: Vết mổ ngắn khi thực hiện phẫu thuật. Tuy nhiên, loại túi này có nhiều khuyết điểm: Van có thể bị xì làm xẹp túi sau phẫu thuật, khi chạm vào không được mềm mại như ngực thật, có cảm giác sột soạt vài nơi trên vùng ngực như chạm vào túi xốp. Để khắc phục những khuyết điểm của túi nước biển, các nhà sản xuất cho ra đời sản phẩm túi gel.
Túi gel: Là loại túi bơm sẵn chất dịch nhờn mềm mại trong túi, không có van, có 2 – 3 lớp vỏ bao bọc nên rất chắc, không bị xì. Khi chạm vào, có cảm giác mềm mại như thật và không có cảm giác sột soạt như túi nước biển. Vết mổ trong phẫu thuật đặt túi gel sẽ dài hơn từ 1 – 2cm so với phẫu thuật đặt túi nước biển. Dù chi phí đặt túi gel cao hơn túi nước biển nhưng hầu hết chị em phụ nữ đều chuộng đặt túi gel, vì mang lại vẻ đẹp thẩm mỹ như thật.
B ộ Y tế kịch liệt lên án hành vi của ông chủ thẩm mỹ viện Cát Tường
Như tin đã đưa, ngày 19/10, chị Lê Thị Thanh Huyền, trú tại 36 Hàng Thiếc, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội, đến thực hiện phẫu thực nâng ngực tại thẩm mỹ viện Cát Tường, địa chỉ 45 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội do ông Nguyễn Mạnh Tường làm chủ. Chị Huyền tử vong ngay sau khi phẫu thuật. Thay vì trình báo cơ quan chức năng, phối hợp với gia đình chị Huyền để giải quyết hậu quả, ông Tường đã cùng nhân viên ném xác chị Huyền xuống sông Hồng để phi tang.
Cơ quan công an đã bắt giữ khẩn cấp Nguyễn Mạnh Tường để điều tra làm rõ. Ngay trong sáng 22/10/2013, Bộ Y tế đã có Công văn số 6794/BYT-VPB1 gửi Chủ tịch UBND TP Hà Nội báo cáo về vụ việc trên và đưa ra các giải pháp giải quyết trong phạm vi chức năng nhiệm vụ được giao.
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết: Lãnh đạo Bộ Y tế rất đau lòng về sự việc xảy ra nói trên và chia sẻ mất mát với gia đình nạn nhân Lê Thị Thanh Huyền. Bộ Y tế hết sức bất bình và lên án hành vi không thể chấp nhận được của ông chủ thẩm mỹ viện Cát Tường. Bộ Y tế sẵn sàng phối hợp với các cơ quan điều tra để cung cấp thông tin và xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi nói trên.
Theo VNE
Quá "dại" khi chọn đẻ mổ
Đẻ mổ mang lại nhiều nguy cơ với cả sản phụ và trẻ sơ sinh mà có thể mẹ chưa biết.
Ngày nay đẻ mổ là phương pháp cứu cánh cho các mẹ có tâm lý sợ đau đẻ, những mẹ có biến chứng trong thai kỳ hoặc trong những trường hợp không thể đẻ thường được. Đồng ý rằng, phương pháp đẻ mổ sẽ giúp mẹ đỡ phải đối mặt với cơn đau chuyển dạ, thời gian mổ đẻ cũng nhanh hơn và đặc biệt sẽ là phương pháp hữu hiệu với những mẹ có bệnh lý thai kỳ. Tuy nhiên, bất cứ phương pháp sinh nở nào cũng có hai mặt ưu và nhược điểm. Đối với đẻ mổ, dường như ẩn chứa nhiều rủi ro hơn với cả mẹ và trẻ sơ sinh.
Dưới đây là những nguy cơ mà mẹ và bé sẽ phải đối mặt khi chọn đẻ mổ. Chị em nên tham khảo trước khi quyết định có nên đẻ mổ hay không nhé!
Nguy cơ với mẹ
Tăng nguy cơ nhiễm trùng
Với những mẹ đẻ mổ, nguy cơ bị nhiễm trùng là rất cao. Nhiễm trùng có thể xảy ra ở vết thương mổ đẻ, trong tử cung hoặc trong cơ quan vùng chậu khác như bàng quang. Theo số liệu thống kê, có đến 30% bệnh nhân mổ lấy thai bị nhiễm trùng hậu sản. Kết quả là thời gian nằm viện của các mẹ sẽ kéo dài hơn và tăng nguy cơ xấu với sản phụ.
Mất máu và xuất huyết
Máu bị mất đi trong quá trình sinh mổ sẽ lớn hơn rất nhiều so với sinh thường. Sau sinh, chị em đẻ mổ thường bị thiếu máu và phải truyền máu. (6/100 phụ nữ phải truyền máu sau sinh mổ).
Chấn thương các cơ quan khác
Sinh mổ cũng mang thai nguy cơ cao bị chấn thương cho các cơ quan khác như bàng quang hay ruột. Trong quá trình phẫu thuật mổ lấy thai, nếu có bất cơ sai sót gì có thể gây vết xước, vết rách ảnh hưởng đến các bộ phận khác như bàng quang, ruột và gây ra các biện chứng sau này.
90% số mẹ chọn sinh mổ lần đầu sẽ phải sinh mổ lần 2, lần 3. (ảnh minh họa)
Tăng nguy cơ mổ lấy thai lần 2
90% số mẹ chọn sinh mổ lần đầu sẽ phải sinh mổ lần 2, lần 3. Kết quả khảo sát còn cho biết, những mẹ mổ lấy thai còn phải đối mặt với các phẫu thuật bằng quang sau sinh.
Nguy cơ cắt bỏ tử cung
Các mẹ đã từng trải qua ca sinh mổ còn phải đối mặt với nguy cơ bị cắt bỏ tử cung trong thai kỳ hiện tại hoặc trong tương lai vì bị chảy máu không kiểm soát ở vết mổ đẻ lần đầu.
Lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung là tình trạng bệnh các tế bào nội mạc tử cung xuất hiện và phát triển mạnh trong khu vực bên ngoài khoang tử cung. Các tế bào này bị ảnh hưởng của kích thích tố nữa và phản ứng một cách tương tự như các tế bào tìm thấy bên trong tử cung. Triệu chứng bệnh thường nặng hơn trong chu kỳ kinh nguyệt. Phụ nữ đã từng mổ lấy thai có nguy cơ cao bị lạc nội mạc tử cung tại vết mổ đẻ trong tử cung và phải phẫu thuật để loại bỏ những tế bào bất thường này.
Nguy cơ tái nhập viện cao
Bệnh nhân mổ lấy thai có nguy cơ tái nhập viện sau sinh cao gấp 2 lần với các bệnh như nhiễm trùng tử cung, biến chứng sản khoa tại vết thương phẫu thuật , thuyên tắc huyết khối (cục máu đông), sỏi mật bà viêm ruột thừa... Huyết khối tĩnh mạch sâu có thể đi đến phổi và não gây thuyên tắc phổi hoặc đột quỵ.
Nguy cơ tử vong cao
Nguy cơ mẹ tử vong trong quá trình sinh mổ cao gấp 2-4 lần so với mẹ sinh thường. Thoe số liệu thống kê tại Hoa Kỹ, mỗi năm có đến 180 sản phụ tử vong khi sinh mổ.
Biến chứng do gây mê và thuốc
Thuốc gây mê và các loại thuốc tiêm vào cơ thể trong quá trình phẫu thuật mổ lấy thai diễn ra ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và nguồn sữa mẹ.
Biến chứng phát sinh từ vết sẹo
Những biến chứng thường thấy nhất là đau vùng chậu, các vấn đề bất thường về đường ruột và đau trong quá trình giao hợp. Vết sẹo mổ lấy thai trong lần đầu cũng dễ gây những biến chứng cho lần mang thai sau như nhau tiền đạo, nhau thai accreta hoặc bong nhau non. Những bệnh này sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe mẹ và thai nhi.
Nguy cơ vô sinh thứ phát, mang thai ngoài tử cung và sảy thai, thai chết lưu không rõ nguyên nhân trong những lần mang thai tiếp theo cũng tăng lên với mẹ đẻ mổ.
Sữa về muộn
Hầu hết các mẹ đẻ mổ đều gặp vấn đề sữa lâu về sau sinh, có những người phải chờ đến cả tuần sau. Trong khi đó, nếu mẹ đẻ thường thì sữa sẽ về ngay hoặc chỉ sau đó 1-2 ngày. Việc sinh mổ cũng khiến mối quan hệ tình cảm giữa mẹ và con khi bé bú gặp bất lợi vì bé sẽ khó bú mẹ hơn.
Nằm viện lâu hơn
Hầu hết các ca sinh mổ thường phải nằm lại viện từ 5-7 ngày.
Lâu phục hồi
Thời gian mẹ phục hồi sau đẻ mổ có thể kéo dài từ hàng vài tuần đến cả tháng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và quá trình chăm sóc bé về sau. Theo số liệu thống kê, 1/14 phụ nữ cho biết họ đau vết mổ trong suốt 6 tháng đầu sau sinh.
Em bé được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai có nguy cơ cao bị hội chứng suy hô hấp và bệnh hen suyễn. (ảnh minh họa)
Nguy cơ với bé
Hội chứng suy hô hấp
Em bé được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai có nguy cơ cao bị hội chứng suy hô hấp và bệnh hen suyễn. Trẻ sơ sinh được mổ lấy thai cũng cần sự trợ giúp về y tế do khó thở hơn những trẻ được sinh thường.
Sinh non
Em bé được sinh ra bằn phương pháp đẻ mổ cũng có thể chào đời sớm, đặc biệt trong những trường hợp xác định ngày dự sinh không chính xác. Những rủi ro thường gặp với bé bị sinh non là gặp vấn đề về đường hô hấp, vàng da, mất nước, nhiễm trùng... Đến tuổi đi học, trẻ sinh non cũng gặp khó khăn để hòa đồng cùng các bạn đồng lứa.
Tăng huyết áp phổi
Tăng huyết áp phổi là sự gia tăng huyết áp động mạnh phổi, tĩnh mạch phối hoặc mao mạch phổi. Em bé sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai có nguy cơ mắc triệu chứng trên cao gấp 5 lần so với trẻ sinh thường.
Ảnh hưởng của thuốc
Trẻ đẻ mổ cũng sẽ chậm bắt nhịp với cuộc sống hơn bé sinh thường và có thể bé cũng sẽ chịu ảnh hưởng của một số loại thuốc trong quá trình mổ đẻ.
Khó bú mẹ
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, trẻ sinh bằng phương pháp đẻ mổ khi ra đời sẽ khó nún ti mẹ hơn và mất nhiều thời gian để làm quen với việc này hơn trẻ sinh thường.
Theo VNE
Chẩn đoán nguyên nhân đau bụng Đau bụng là triệu chứng rất thường gặp. Cần đoán định sớm nguyên nhân đau bụng để có biện pháp xử lí tránh hậu quả đáng tiếc. Đau bụng là triệu chứng rất thường gặp. Để chẩn đoán nguyên nhân gây ra đau bụng, người ta dựa vào đặc điểm cơn đau, thăm khám, xét nghiệm và đôi khi cần phải phâu thuật...