Nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản
Xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản nửa đầu năm 2022 đạt nhiều kết quả tích cực, song cũng như nhiều ngành, lĩnh vực khác, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông sản đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn cần được tháo gỡ.
Đây là nội dung được các chuyên gia tập trung thảo luận tại Tọa đàm “ Nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản” do Báo Hải quan tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26/7.
Ông Đào Xuân Tám, Phó Cục trưởng Cục Giám sát Quản lý Tổng cục Hải quan thông tin chính sách hỗ trợ xuất khẩu của ngành hải quan tại toạ đàm.
Bà Vũ Thị Ánh Hồng, Tổng biên tập Báo Hải quan thông tin, xuất khẩu đang là điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam trong nửa đầu năm 2022; trong đó ngành nông nghiệp đóng vai trò chủ chốt. Kết quả xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt gần 28 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2021. Sau 6 tháng, ngành nông nghiệp ghi nhận 9 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD, gồm: cà phê, cao su, điều, rau quả, gạo, cá tra, tôm, sản phẩm gỗ, đầu vào phục vụ sản xuất. Ngành nông nghiệp đã mang về thặng dự thương mại khoảng 5,75 tỷ USD, gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2021.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, hiện nay, nông sản Việt Nam đã có mặt tại trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có nhiều sản phẩm xuất khẩu trên 1 tỷ USD, như: cà phê, gạo, rau quả, tôm, cá tra… Xuất khẩu không những kích thích tăng trưởng kinh tế, gia tăng thu nhập quốc dân mà còn giúp giải quyết công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trong nước.
Dù đạt nhiều kết quả ấn tượng, song cũng như nhiều ngành, lĩnh vực khác, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông sản đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, như: Lạm phát tăng cao ở nhiều thị trường xuất khẩu quan trọng, ảnh hưởng của chiến sự Nga – Ukraine… khiến giá vật tư, nguyên liệu đầu vào, chi phí logistics tăng mạnh; cùng với tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất… đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành xuất khẩu hàng hóa. Mặt khác, hàng nông, thuỷ sản Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô, xuất khẩu tiểu ngạch còn nhiều; kim ngạch xuất khẩu vào thị trường cao cấp còn ít; quy trình nuôi trồng, thu hoạch chưa đạt chuẩn, chế biến còn hạn chế…
“Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, cũng như đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông sản vào các thị trường truyền thống của Việt Nam, cũng như các quốc gia thuộc Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU ( EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) …ngành nông nghiệp cần có sự thay đổi mạnh mẽ trong sản xuất, chế biến để có thể đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của thị trường xuất khẩu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong những năm tới”, bà Vũ Thị Ánh Hồng nhấn mạnh.
Ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước về hải quan, ông Đào Xuân Tám, Phó Cục trưởng Cục Giám sát Quản lý, Tổng cục Hải quan cho biết, hoạt động xuất khẩu nông sản, thủy sản được nhà nước khuyến khích với nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi tối đa. Thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là hàng nông, thủy sản đơn giản, tạo thuận lợi thương mại và được ưu tiên trong thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan.
Tuy nhiên, hiện nay tình hình dịch bệnh COVID-19 vẫn có thể diễn biến phức tạp do đã xuất hiện biến chủng mới; nhiều nước trên thế giới còn áp dụng chặt chẽ các biện pháp kiểm soát phòng, chống dịch nên hoạt động xuất nhập khẩu có thể bị ảnh hưởng.
Để hạn chế ảnh hưởng, thiệt hại từ dịch bệnh, ngành hải quan khuyến nghị các doanh nghiệp khi xuất nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là đối với mặt hàng nông, thủy sản cần lưu ý: Nghiên cứu, nắm tình hình diễn biến dịch bệnh và chính sách kiểm soát phòng chống dịch của Việt Nam cũng như các nước có liên quan kịp thời; thực hiện hoạt động thương mại theo thông lệ quốc tế; các nội dung thỏa thuận tại các hợp đồng thương mại quốc tế nên được đàm phán chặt chẽ và có những điều khoản dành riêng cho trường hợp ảnh hưởng do dịch bệnh/ thiên tai.
Doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu cần nâng cao chất lượng nông sản theo hướng đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu; đa dạng hóa đối tượng khách hàng và thị trường xuất khẩu nông sản để tránh phụ thuộc vào các đối tượng khách hàng, thị trường truyền thống; hoàn thành thủ tục hải quan sớm để khi hàng hóa đưa ra cửa khẩu không phải chờ đợi, bảo quản chờ xuất khẩu.
Tọa đàm Nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Video đang HOT
Trong khi đó, bà Bùi Hoàng Yến, Tổ Phó Tổ Công tác miền Nam, Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương phân tích về những cơ hội xuất khẩu từ các hiệp định thương mại tự do (FTA). Theo đó, Việt Nam đã ký kết 15 FTA, việc đàm phán và ký kết thành công nhiều FTA với các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội về tăng trưởng kinh tế, đa dạng hóa thị trường xuất – nhập khẩu trong thời tới. Việc thực hiện cam kết FTA với các nước châu Âu và khu vực khác trên thế giới sẽ giúp phát triển thị trường xuất – nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đa dạng, cân bằng và đạt hiệu quả hơn.
Bà Bùi Hoàng Yến đặc biệt lưu ý các giải pháp để tận dụng cơ hội xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản mà EVFTA mang lại. Cụ thể, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin để nắm vững cam kết của Việt Nam và cam kết của EU, đặc biệt là các thông tin về các ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này đối với những mặt hàng Việt Nam đang có thế mạnh hoặc có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên nghiên cứu các giải pháp như nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm; phát huy lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu suất… Để tận dụng được ưu đãi từ hiệp định, doanh nghiệp cần đảm bảo sản phẩm của mình đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ và về tiêu chuẩn kỹ thuật của EU.
“Doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. EVFTA chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào thị trường EU”, bà Bùi Hoàng Yến khuyến nghị.
Đa dạng thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu
Mặc dù xuất khẩu vẫn đang phục hồi mạnh mẽ nhưng các yếu tố gây bất lợi tới xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng đang xuất hiện.
Điều này đến từ thương mại toàn cầu đang phục hồi chậm lại do tác động từ xung đột giữa Nga - Ukraine cùng tình hình dịch bệnh bùng phát và chủ trương "Zero COVID" tại Trung Quốc. Do đó, để giảm sự lệ thuộc vào một số thị trường, các chuyên gia khuyến cáo doanh nghiệp cần đa dạng hoá thị trường, tìm khách hàng mới để đẩy mạnh xuất khẩu.
Chế biến sản phẩm dứa đóng hộp xuất khẩu tại nhà máy của Công ty CP Xuất nhập khẩu Nông sản thực phẩm An Giang (tỉnh An Giang). Ảnh tư liệu: Vũ Sinh/TTXVN
Nguồn cung ứng chậm lại
Nhận định từ các chuyên gia thương mại, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai và là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Vì vậy, việc quốc gia này vẫn đang thực hiện các biện pháp phong tỏa do COVID-19 sẽ ảnh hưởng tới công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu của Việt Nam trong những tháng tới.
Thực tế cho thấy, mặc dù đơn hàng xuất khẩu dồi dào, hoạt động sản xuất phục hồi, lao động ổn định, song các ngành sản xuất chủ yếu đang phải gồng mình trong cơn "bão giá" vì hầu hết các chi phí sản xuất đầu vào đều tăng cao, do tác động kép từ đại dịch và xung đột Nga-Ukraine.
Theo đại diện một số doanh nghiệp, khó khăn lớn nhất là tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19 và chi phí đầu vào gia tăng quá mạnh. Trong bối cảnh hiện tại, doanh nghiệp nào có tỷ trọng nguyên liệu mua trong nước cao sẽ thuận lợi hơn.
Lý do là hầu hết các ngành nhập nhiều nguyên liệu từ Trung Quốc, trong khi nước này đang thực hiện chính sách Zero COVID-19, khiến chuỗi cung ứng bị chậm lại. Không những thế, có thời điểm đã gây ùn tắc hàng hóa nghiêm trọng tại khu vực cửa khẩu, đồng thời là nguyên nhân trực tiếp gây sụt giảm kim ngạch thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc thời gian qua.
Mặt khác, xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc còn vướng mắc. Sở dĩ vậy do nhiều doanh nghiệp hai nước vẫn lựa chọn xuất khẩu tiểu ngạch vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Hơn nữa, hạ tầng giao thông và các dịch vụ logistics còn hạn chế nên nguy cơ tái diễn tình trạng ùn tắc nghiêm trọng hoàn toàn có thể xảy ra nếu không được tháo gỡ kịp thời.
Tìm kiếm thị trường mới
Ông Biện Tấn Tài, Phó Giám đốc Sở Công Thương Bình Thuận chia sẻ, để đảm bảo hoạt động xuất khẩu hàng hóa, nhất là thanh long, Sở Công Thương Bình Thuận sẽ trao đổi thường xuyên với Sở Công Thương các tỉnh biên giới phía Bắc để khuyến cáo và hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thanh long tránh tập trung vào một cửa khẩu để hạn chế hiện tượng ùn tắc hàng hóa khi thu hoạch rộ.
Ngoài thị trường Trung Quốc, Bình Thuận sẽ đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại tại nước ngoài; trong đó, chú trọng thị trường Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, các quốc gia Trung Đông và các nước đã ký hiệp định thương mại tự do với Việt Nam.
Mặt khác, tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thanh long tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam như: Lotte (Hàn Quốc), Aeon (Nhật Bản), Big C (Thái Lan)... để thông qua đó tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường.
Trước những khó khăn trong xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, trong kế hoạch xuất khẩu sản phẩm hàng hóa giai đoạn từ 2012-2025, ngoài Trung Quốc, Australia, Hàn Quốc Nhật Bản, tỉnh Sơn La vẫn coi Campuchia là một thị trường xuất khẩu nhãn, mận tiềm năng.
Thực tế cho thấy, đã có nhiều hợp tác xã trồng cây ăn quả ở Sơn La xuất khẩu nông sản thành công sang Campuchia. Chẳng hạn như Hợp tác xã xây dựng dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Chấn Yên liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu mận; Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Bảo Lâm xuất khẩu nhãn...
Theo các chuyên gia, Campuchia là một thị trường gần với Việt Nam nhưng bên cạnh những hợp tác xã tận dụng được cơ hội xuất khẩu nông sản, không ít hợp tác xã lại bỏ qua thị trường này.
Trong khi nếu muốn xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Thụy Sỹ, các hợp tác xã cần phải bảo đảm được các đơn hàng với số lượng lớn, đạt được các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng như các chứng nhận hữu cơ quốc tế, trải qua nhiều công đoạn kiểm dịch thực vật phức tạp...
Hơn nữa, điểm thuận lợi trong xuất khẩu nông sản, hàng hóa sang Campuchia là quãng đường vận chuyển hàng ngắn và có nhiều đặc điểm tương đồng về văn hóa, nhu cầu thị trường, thói quen tiêu dùng.
Ngoài Campuchia, Lào cũng được đánh giá là một thị trường gần, giàu tiềm năng đối với nông sản, hàng hóa. Hợp tác xã Thủy sản Thanh Chăn (Điện Biên) có diện tích ươm nuôi thủy sản lên đến gần 5ha và thị trường tiêu thụ cá giống chủ yếu là các huyện vùng ngoài lòng chảo Điện Biên và xuất sang Lào, thu về hàng tỷ đồng mỗi năm.
Ông Trần Văn Yên, Giám đốc Hợp tác xã Thuy sản Thanh Chăn cho biết, Lào và Việt Nam hiện có 7 cặp cửa khẩu chính và 18 cặp cửa khẩu phụ, 8 cặp cửa khẩu quốc tế, có 10 tỉnh giáp biên. Điều này giúp giao thương thuận lợi, quãng thời gian và chi phí được rút ngắn rất nhiều so với nhiều quốc gia khác trong khu vực châu Á và thế giới.
Theo các chuyên gia, bên cạnh việc nâng cao tiêu chí chất lượng, đáp ứng các thị trường khó tính, việc tận dụng các thị trường gần như Lào, Campuchia, Thái Lan... là điều cần thiết. Bởi thị trường đầu ra cho hàng hóa luôn có nhiều biến động, nhất là khi dịch COVID-19 xảy ra, cước vận tải xuất đi các nước trên thế giới đang chưa có dấu hiệu dừng.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nông sản chưa qua chế biến của Việt Nam hiện còn cao, khoảng 65%, nên việc xuất khẩu tươi sang các thị trường gần sẽ phần nào giải quyết được bài toán được mùa mất giá, giảm chi phí vận chuyển, phù hợp điều kiện đầu tư, từ đó từng bước tăng sức cạnh tranh.
ADVERTISING
00:00
Hơn nữa, dù là các nước nông nghiệp trong khu vực, nhưng các thị trường này cũng có nhu cầu lớn về nhập khẩu các loại trái cây, rau củ tươi, thủy sản vì đặc điểm lệch mùa.
Để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa trong thời gian tới, Bộ Công Thương lưu ý các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu cần áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro khi giao kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài.
Đặc biệt, Bộ Công Thương cũng chỉ đạo toàn bộ hệ thống Thương vụ tại các nước châu Âu có trách nhiệm cao nhất trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đang có gặp khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu với Nga và Ukraine để tìm cách chuyển hướng sang các thị trường phù hợp tại châu Âu.
Bởi với việc phụ thuộc lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ Trung Quốc nếu tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng bị kéo dài có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam trong những tháng tới.
Cùng với đó, Bộ Công Thương đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, chú trọng triển khai hiệu quả các FTA đã có hiệu lực, các cam kết trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Ngoài ra, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường, xúc tiến xuất khẩu, tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA đã ký kết và thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu để tìm kiếm thị trường mới.
Bên cạnh đó, theo dõi sát những biến động của tình hình quốc tế, chủ động đánh giá các tác động của các sự kiện đó đến sản xuất, xuất nhập khẩu của Việt Nam để kịp thời có sự điều chỉnh, ứng phó thích hợp, tăng cường thông tin, hỗ trợ cho các hiệp hội, doanh nghiệp.
Mặt khác, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan, các địa phương biên giới phía Bắc tiếp tục giao thiệp, trao đổi thường xuyên với phía Trung Quốc để bàn bạc các giải pháp nhằm tháo gỡ ùn tắc, tăng hiệu suất thông quan, hướng đến thông quan thông suốt ổn định lâu dài.
Đưa vải thiều Việt Nam vươn ra thế giới Sáng ngày 16/6, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với UBND Bắc Giang, UBND Hải Dương tổ chức Diễn đàn "Vải thiều Việt Nam vươn ra thế giới". Mở rộng thị trường xuất khẩu vải thiều Chương trình nhằm thảo luận các giải pháp đưa vải thiều Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng trên khắp thế giới và...