Nam Phương hoàng hậu: Cuối cùng còn lại là tình yêu
Vào buổi chiều tối ngày 15/9/1963, tại lâu đài Domain de la Perche, thuộc làng Chabrignac, vùng Trung Tây nước Pháp, Nam Phương hoàng hậu lặng lẽ qua đời. Năm ấy bà mới 49 tuổi.
Lúc bà mất, bên cạnh không có một người thân thiết nào, ngoài hai phụ nữ giúp việc. Căn bệnh tim mãn tính, thêm với trận cảm nắng tưởng chừng xoàng xĩnh, nhưng khiến bà không chống đỡ nổi trong khi chờ bác sĩ tới. Một cái chết ít ai ngờ tới, hay đó chính là định mệnh của vị hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn, cũng là hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam. Một cuộc đời tưởng chừng thanh nhàn, êm ấm, nhưng cũng không ít sóng gió, hắt hiu và ra đi trong cô độc.
Nam Phương hoàng hậu.
Nam Phương hoàng hậu là thứ nữ của ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình, tức là cháu ngoại của đại phú hào Lê Phát Đạt, tục gọi là ông Huyện Sỹ. Theo tục lấy tên cha, bà có tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, và tên thánh là Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan.
Tuy sinh ra ở Gò Công (Tiền Giang), nhưng hai chị em bà được gia đình cho lên Sài Gòn ăn học, sống trong căn biệt thự sang trọng trên đường Nguyễn Du, nơi cách nhà thờ Huyện Sỹ chỉ vài phút đi bộ. Gọi là nhà thờ Huyện Sỹ vì nhà thờ này được ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu hiến tặng rất nhiều tiền để xây dựng. Nay nhà thờ này vẫn còn. Và là một trong những di tích lịch sử nổi tiếng của Sài Gòn hôm nay.
Thuở nhỏ ở Gò Công, rồi cùng chị lên Sài Gòn ăn học, Nguyễn Hữu Thị Lan lúc nào cũng là một người thiếu nữ đằm thắm, ngoan hiền. Có thể nói cả thời trẻ cô chăm chú chuyện học hành. Năm 12 tuổi thì được gia đình gửi sang Pháp học trường nữ sinh danh tiếng Couvent des Oiseaux (Paris). Tháng 9/1932, sau khi thi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan của hãng Messagerie Maritime.
Có tài liệu nói vua Bảo Đại cũng đi trên chuyến tàu đó, rồi tình cờ hai người gặp nhau. Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng thực ra hai người đã biết nhau từ ngày còn học bên Pháp, chuyến trở về là một cơ duyên để thêm gắn kết, thắm tình. Cũng có nguồn tin cho rằng hai người gặp nhau tại Đà Lạt trong một dạ tiệc tại khách sạn La Palace do Toàn quyền Đông Dương tổ chức.
Không rõ sương mù Đà Lạt hay sương mù ký ức đã phủ lên cuộc tình của họ, chỉ biết rằng họ từng là những kẻ yêu trước khi thành chồng vợ.
Đọc cuốn Nam Phương hoàng hậu cuối cùng của Lý Nhân Phan Thứ Lang mới được phát hành, chúng ta cũng có thể thấy được rằng, vào thời ấy, những câu chuyện tình yêu của những người nổi tiếng, không phải lúc nào cũng ồn ào một cách chủ ý. Đặc biệt là với nữ giới.
Chậm rãi giữa những trang sách, chúng ta dễ nhận thấy “tâm trạng khi yêu” của Bảo Đại, còn về phía Nguyễn Hữu Thị Lan, chỉ có thể thấy những đường nét mờ ảo, ẩn khuất. Dường như, chưa bao giờ bà Nam Phương nói rõ tình yêu của mình với Bảo Đại, mà qua những ý tứ hé mở, chúng ta thấy đấy như là một định mệnh. Như chính lời bà nói, về sau này: “Việc này là do Chúa định, tôi biết làm sao được” (!)
Việc này, tức là việc bà đồng ý làm vợ vua Bảo Đại, khi hai người khác đạo, khi vị vua trẻ nổi tiếng là ham chơi và đào hoa. Và, mặc cho những ngăn cản, định kiến từ gia đình nhà trai, một đám cưới theo nghi thức mới cũng được cử hành vào ngày 20/3/1934 tại Điện Dưỡng Tâm (Tử Cấm Thành – Huế).
Năm đó, Bảo Đại 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan vừa 20 tuổi. Theo Lý Nhân Phan Thứ Lang thì những nguồn tin cũng như những tài liệu mà ông nắm được, cho biết Nguyễn Hữu Thị Lan đã chủ động đặt những thỏa thuận, mà chưa từng có trong cung đình.
Video đang HOT
Thứ nhất là giải tán tam cung lục viện, không còn chuyện năm thê bảy thiếp nữa. Thứ hai, hoàng đế phải tấn phong hoàng hậu sau khi cưới, chứ không phải được phong sau khi hoàng đế qua đời như xưa cũ. Thứ ba, con trai sinh ra phải được phong là thái tử. Đó là những thay đổi theo tinh thần văn minh, là ý thức mới của một người Tây học.
Tuy nhiên, có thể thấy việc tấn phong hoàng hậu, trước hết là tâm nguyện của Bảo Đại. Lúc này, ông còn rất yêu vợ và muốn làm một việc “chưa từng có trong triều đình”. Nam Phương hoàng hậu, tức “Hương thơm miền Nam” là danh hiệu mà Bảo Đại dành tặng cho người vợ của mình với biết bao cảm xúc thương yêu, tôn trọng.
Tuy đã dẹp bỏ “tam cung lục viện”, không còn cảnh “năm thê bảy thiếp”, nhưng Bảo Đại vẫn “thói đa tình”, sểnh ra khỏi nhà là có tình nhân.
Bảo Đại là vị vua nổi tiếng đào hoa.
Cuộc tình công khai và nổi tiếng nhất của Bảo Đại sau khi có với Nam Phương hoàng hậu mấy mặt con, là cuộc tình với vũ nữ Lý Lệ Hà. Đây là thời gian mà Bảo Đại được mời ra Hà Nội trong vai trò Cố vấn tối cao của Chính phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đọc Nam Phương hoàng hậu cuối cùng, chúng ta thấy được những cảm xúc rất thật của một người phụ nữ khi biết chồng mình ngoại tình. Chúng ta như run rẩy theo những cảm xúc của bà. Và, chúng ta thấy thương yêu, kính trọng bà nhiều hơn, khi đọc những dòng bà viết cho “tình địch”: “Em Lý Lệ Hà thân quý! Chị ở xa đức cựu hoàng mấy dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng chăm sóc cựu hoàng ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi cựu hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị, Nam Phương”.
Nội dung bức thư được cho là viết vào tháng 3/1946 khi Bảo Đại sang Trung Quốc rồi sang Hong Kong cùng Lý Lệ Hà. “Chị trọn kiếp nhớ ơn em”, có lẽ cũng là trọn kiếp không quên chuyện này (!)
Bà Nam Phương cùng các con khi mới sang Pháp.
Nam Phương hoàng hậu cuối cùng, là điều mà Nam Phương có nghĩ tới chăng? Có lẽ là bà chưa từng nghĩ đến. Đầu tiên hay là cuối cùng thì bà cũng chỉ có một người yêu, một người chồng là ông Vĩnh Thụy, tức Bảo Đại.
Là một hoàng hậu, bà từng nghĩ là do Chúa định. Là một người vợ, sau Cách mạng tháng Tám, bà từng định ra Hà Nội cùng chồng, nhưng rồi ngại chính phủ lo phiền, ngại chồng bị gò bó, bà cam chịu một mình cùng các con ở cung An Định. Là một người từng đứng giữa ngã ba đường, bà vẫn một lòng lo lắng cho con, nghĩ tới tương lai của chúng. Là những tháng ngày cô độc ở nước Pháp, mà vẫn giữ hình ảnh đẹp với một tinh thần sống đẹp.
Hình ảnh của Nam Phương hoàng hậu, thật đúng với tinh thần câu thơ mà thi sĩ Tản Đà đã phóng bút tặng bà vào năm 1938.
“Cung duy mẫu đức nghi thiên hạ
Lạc đồ tiên nhân giáng tự trần”
(Đức độ của quốc mẫu thực xứng đáng làm gương cho thiên hạ
Vui mừng được thấy tiên đã giáng xuống cõi trần)
Như thế đó, Nam Phương hoàng hậu, qua hết thảy những đắng cay, cuối cùng còn lại là cái đẹp và tình yêu chân thành.
Theo Việt Sinh (Zing)
Triều đại duy nhất có chính sách khuyến học với dân tộc ít người
Nhà Nguyễn là vương triều đầu tiên và duy nhất trong lịch sử trung đại thực hiện chính sách giáo dục đối với các dân tộc ít người.
Là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, nhà Nguyễn giai đoạn độc lập (1802-1858) làm chủ lãnh thổ từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Lựa chọn Nho giáo làm học thuyết trị nước, triều Nguyễn xây dựng mô hình giáo dục mô phỏng theo Trung Hoa.
Chương trình học tập phân thành tiểu học (dành cho trẻ từ 6 đến 10 tuổi) và đại học (từ 10 tuổi trở lên, có vốn tri thức tương đối). Học trò học Tứ Thư, Ngũ Kinh, sau đó trải qua các kỳ thi lần lượt là Hương, Hội và Đình.
Theo Lịch sử Việt Nam tập 5, chương trình, phương thức dạy và học, thi cử của triều Nguyễn vẫn theo lối khoa cử sáo mòn từ nhiều thế kỷ trước. Điểm vượt trội là đã thực hiện chính sách giáo dục đối với các dân tộc ít người. Nhà Nguyễn là vương triều đầu tiên và duy nhất trong lịch sử trung đại triển khai việc này.
Chính sách giáo dục đối với dân tộc ít người được vua Minh Mệnh (còn gọi là Minh Mạng) thiết kế, vua kế nhiệm Thiệu Trị, Tự Đức thực thi với mục tiêu xây dựng nền Nho học thống nhất cả nước, không phân biệt người Kinh với người thiểu số, không phân biệt đẳng cấp, xóa bỏ dần hủ nạn, cục bộ ở vùng xa.
Triều Nguyễn duy trì hệ thống trường công và trường tư. Trường tư do các thầy đồ tự mở, quy mô nhỏ. Ảnh tư liệu.
Triều đình xây dựng hệ thống học đường quy mô vừa và nhỏ với mạng lưới giáo chức đông đảo rải khắp địa bàn dân tộc thiểu số (trừ vùng Thủy Xá, Hỏa Xá ở Tây Nguyên). Ở vùng xa của các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, Vĩnh Long, Hà Tiên, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn..., triều đình bố trí các giáo thụ (phụ trách học tập của một phủ), huấn đạo (quản lý học tập của một huyện) chuyên trách cho phủ, huyện, hoặc cụm huyện tùy theo nhu cầu của từng địa phương.
Việc tuyển giáo chức được triều đình coi trọng. Lịch sử Việt Nam tập 5 chép lại lời vua Minh Mệnh: "Hạ lệnh cho các tỉnh phải xét kỹ học hạnh của giáo chức được học trò tin theo, hoặc người nào học thức cạn hẹp không kham nổi chức vụ, phải soi xét phân biệt mà tâu lên, đợi trẫm cách bãi hoặc thăng chức. Nếu có nơi nào thiếu, cần phải tuyển bổ, nên chọn người lớn tuổi học giỏi sung vào".
Đến triều Thiệu Trị, hoạt động giáo dục ở một số huyện vùng cao phía Bắc đã có bước chuyển quan trọng. Theo tấu trình của Thự Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên Nguyễn Đăng Giai, ở Tuyên Quang vì "nhiều người thổ mục muốn cho con em theo học" nên xin dựng nhà học của tỉnh và đặt giáo thụ để giảng tập. Điều này chứng tỏ học lực của một số học trò người dân tộc đã vượt xa trình độ phổ cập tiểu học - mục tiêu ban đầu của triều đình.
Năm 1838, vua Minh Mệnh có dụ thể hiện rõ chính sách khuyến khích giáo dục vùng dân tộc thiểu số phía bắc. Các thổ huyện, châu ở Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng Hóa (nay là Phú Thọ, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình), Quảng Yên (nay là Quảng Ninh) đều đặt quan cai trị, mục đích muốn "nhân dân vùng đó hun đúc, tiêm nhiễm, trông nhau làm nên để có đường tiến thân".
"Những người vui lòng dựa vào triều đình để xem phong hóa, tưởng cũng chẳng thiếu gì. Nay cho thượng ty các tỉnh ấy xét trong hạt, không cứ con em thổ quan hay nhà dân, cũng không cứ học đủ văn thể ba trường, ai là người tuấn tú thông minh, cho được vào kinh, giao cho quan Quốc tử giám dạy cho học tập", sách Lịch sử Việt Nam chép.
Những cá nhân ưu tú vùng dân tộc ít người được gọi là Ân cống sinh, được cấp lương ăn học ở Quốc tử giám (đặt ở kinh thành Huế), cùng với Tôn sinh, Ấm sinh (người của hoàng tộc, con quan lại). Năm 1844, Quốc tử giám có một học sinh Cao Bằng, hai người Lạng Sơn, một người Tuyên Quang, một người Hưng Hóa và một người Thái Nguyên.
Đây là lần đầu tiên trong thành phần học sinh Quốc tử giám có thêm diện ưu đãi là con em vùng dân tộc ít người, không phân biệt xuất thân.
Quốc tử giám ở Huế, nơi một số con em đồng bào dân tộc được theo học. Ảnh: Võ Thạnh.
Học ngôn ngữ dân tộc thiểu số
Ngoài việc khuyến học ở vùng dân tộc thiểu số, nhằm quản lý trực tiếp và thay đổi dần bộ mặt của vùng miền núi trên mọi phương diện, vua Minh Mệnh trú trọng đào tạo đội ngũ quan chức người dân tộc thiểu số biết chữ Hán và người Kinh biết chữ dân tộc.
Năm 1836, vua cho tìm người người Kinh biết chữ Hán, lại am tường chữ Chiêm, chữ Ni để mở lớp dạy tiếng dân tộc. Tại các tỉnh Bình Thuận, Hà Nội, Tuyên Quang, chọn tuyển học sinh học chữ và tiếng của người Chiêm, người Ni, Thanh, Thổ.
Ở Vĩnh Long, An - Hà, quan địa phương được lệnh tìm chọn những người minh mẫn, biết chữ Hán, cho học chữ Miên. Ở vùng rừng núi Nghệ An, triều đình xuống chỉ cho chiêu mộ những người thông hiểu tiếng dân tộc thiểu số trong hạt, điều về kinh để dạy tiếng và làm việc công. Ở biên giới phía Bắc, quan tỉnh Tuyên Quang Trần Ngọc Lâm đã mở lớp ở huyện Để Định, Vĩnh Điện. Lớp này do thầy giáo người Thổ dạy cho 5-6 học ính người bản hạt.
Với số lượng trường, lớp tăng tiến nhanh chóng, phân bổ khắp địa bàn từ miền xuôi đến miền ngược và các khoa thi mở liên tục, triều Nguyễn giai đoạn độc lập tự chủ đã tạo ra nguồn nhân lực dồi dào dùng cho bộ máy công quyền.
Theo Hồng Khánh (Theo VNEXPRESS)
Những giai nhân tuyệt sắc từng đi qua cuộc đời ông hoàng Bảo Đại Vua Bảo Đại không chỉ nổi tiếng là ông vua cuối cùng của triều Nguyễn mà còn được biết đến là một ông hoàng lẫy lừng trong tình trường. Ông có đến 6 người vợ và nhân tình thì không đếm xuể, ai cũng là những trang giai nhân tuyệt sắc. Nguyễn Thị Hữu Lan - tên thật của Nam Phương hoàng hậu...