Nấc thang cuối của Trung Quốc trên Biển Đông
Trung Quốc muốn là một chuyện, còn ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng lại là chuyện khác.
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã chứng kiến đủ các chiêu trò của Trung Quốc khi tranh chấp và chiếm đoạt chủ quyền trên biển của các quốc gia khác. Nhưng tựu trung lại, chúng ta thấy Trung Quốc có 3 bước cơ bản để thực hiện chiến lược chiếm Biển Đông.
Một là xác định khu vực chiếm đoạt bằng một loạt kế sách từ biến không thành có, từ khu vực không có tranh chấp biến thành khu vực có tranh chấp và cuối cùng là đánh dấu khu vực bằng bản đồ do mình tự vẽ ra từ tham vọng.
Sau một thời gian triển khai với nhiều mưu mô chước quỷ, Trung Quốc đã trắng trợn tuyên bố cái “bản đồ chín khúc” mà theo đó toàn bộ Biển Đông thuộc Trung Quốc.
Hai là khẳng định chủ quyền bằng biện pháp phi quân sự như tuyên bố khu vực cấm đánh bắt, dùng tàu cá được bảo kê của các tàu chấp pháp tràn vào vùng biển nước khác ngang nhiên đánh bắt, hạ đặt giàn khoan vào sâu trong thềm lục địa của nước khác…
Tất cả 2 bước trên đều dựa trên một nền tảng là nước lớn cậy mạnh nên Trung Quốc tỏ ra rất hung hăng, ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế.
Khi trên Biển Đông còn tồn tại quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam thì giải quyết vấn đề bằng phi quân sự của Trung Quốc với một Việt Nam kiên cường, có truyền thống chống xâm lược là không thể đạt được.
Chính vì thế Trung Quốc sẽ buộc phải thục hiện bước thứ ba: Gây xung đột quân sự hạn chế hay thực hiện một cuộc chiến tranh với quy mô hạn chế để thôn tính hoàn toàn Biển Đông.
Chiến tranh hạn chế kiểu Trung Quốc
Không phải bây giờ mà ngay từ đầu triển khai chiến lược biến Biển Đông thành “ao nhà” tư tưởng, quan điểm này của giới cầm quyền Trung Quốc đã biểu hiện rõ qua những tuyên bố của các học giả, tướng tá diều hâu và cơ quan ngôn luận của Trung Quốc như Hoàn Cầu thời báo…
Họ cho rằng “thế năng chiến tranh trên Biển Đông là rất lớn nên đánh một trận nhỏ để không có trận lớn” hay “Trôi dây hoa binh không mâu thuẫn với sử dụng vũ lực, bảo vệ chủ quyền có thể nổ súng”…Và trong vụ hạ đặt giàn khoan phi pháp vừa qua, Trung Quốc đã cho tàu pháo áp sát tàu chấp pháp Việt Nam với độ sẵn sàng chiến đấu rất cao, nghĩa là có thể bắn vào tàu Việt Nam bất cứ lúc nào.
Như vậy có thể thấy rằng, vấn đề xung đột quân sự trên Biển Đông không phải là có xảy ra hay không mà trước sự hung hăng, ngang ngược của Trung Quốc ngày càng tăng thì vấn đề chỉ là khi nào xảy ra xung đột mà thôi.
“Chiến tranh hạn chế” thực chất là một cuộc tấn công phủ đầu bằng quân sự chớp nhoáng đánh chiếm một mục tiêu mà buộc đối phương lựa chọn khắc nghiệt “mất nhiều hay mất ít” trước khi có hành động đánh trả.
Chiến tranh hạn chế được thực hiện khi Trung Quốc đã có khả năng gây áp lực rất lớn về kinh tế, chính trị, lên đối thủ, đồng thời có sức mạnh răn đe quân sự, mở rộng chiến tranh, là 2 đầu vào chính cho đối phương giải bài toán “mất nhiều hay mất ít”.
Đối phương chấp nhận sự “mất ít” là Trung Quốc thắng lợi và ngược lại thì Trung Quốc sẽ bị rất nhiều rủi ro, sa lầy hoặc trả giá đắt cho hành động quân sự gây ra. Vì thế, đương nhiên, khi hành động, Trung Quốc phải tính toán kỹ sức mạnh và đặc biệt là ý chí quyết tâm của đối thủ trong bảo vệ toàn vẹn chủ quyền…để ra tay.
Video đang HOT
Với Việt Nam, liệu Trung Quốc có tiến hành một cuộc chiến tranh hạn chế hay không?
Trên Biển Đông, mục tiêu chủ yếu và duy nhất cho Trung Quốc thực hiện học thuyết chiến tranh hạn chế này chính là các đảo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Thực tế là ngày 14/3/1988, Trung Quốc dùng 12 tàu chiến bất ngờ tấn công vào 3 tàu vận tải của Hải quân Việt Nam. Với cuộc đối đầu không cân sức này, Trung Quốc đã chiếm được đảo Gạc Ma và một số đảo khác của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa.
Có thể nói, đây là một tiền lệ rất xấu cho các nước trong khu vực nhưng là một kinh nghiệm bổ ích nhất cho Trung Quốc trong học thuyết chiến tranh hạn chế mà Trung Quốc đang hung hăng đe dọa áp dụng với các nước khác trong đó có Việt Nam.
Quả thật lúc đó Việt Nam đang ở trong một tình cảnh cực kỳ khó khăn mà nếu như không phải là người dân Việt Nam thì sự chịu đựng trong thế ngặt nghèo đó là không thể. “Vòng tròn bất tử Gạc Ma” còn đó, dân tộc Việt Nam không bao giờ quên.
Giờ đây, nếu Trung Quốc dùng vũ lực tấn công đánh chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam thì có 2 sự lựa chọn xảy ra.
Một là Việt Nam chấp nhận “mất ít” mà không muốn chiến tranh vì phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc và sự đáp trả của Việt Nam là đòi lại bằng “biện pháp hòa bình”.
Đây là lựa chọn không thể xảy ra vì thế và lực của Việt Nam đã khác. Mất đảo là sự mất mát quá lớn đến chủ quyền thiêng liêng của quốc gia. Nếu Việt Nam cứ bám víu vào cái hữu nghị viễn vông, cái nền hòa bình lệ thuộc, chọn sự “mất ít” có nghĩa là “mất dần” thì chắc chắn không một người Việt Nam nào chấp nhận, đặc biệt trong điều kiện thế và lực của chúng ta hiện nay đã khác xa năm 1988.
Vì vậy, Việt Nam chỉ có lựa chọn cách thứ hai là, thà hy sinh tất cả chứ nhất định không để biển đảo rơi vào tay Trung Quốc xâm lược. “Không đánh đổi chủ quyền bằng thứ hữu nghĩ viễn vông hay nền hòa bình lệ thuộc” là tuyên bố của lãnh đạo Việt Nam làm nức lòng dân tộc, được toàn dân nhất trí, ủng hộ.
Liệu Trung Quốc dùng “chiến tranh hạn chế” để buộc Việt Nam chọn sự “mất ít” như trước đây hay không thì qua vụ hạ đặt phi pháp giàn khoan trong thềm lục địa của Việt Nam, Trung Quốc có thể nhận thức được vấn đề, song, cậy mạnh, chủ quan coi thường đối thủ là bản chất của kẻ xâm lược, cho nên, chúng ta không bao giờ nghĩ rằng Trung Quốc sẽ không gây xung đột quân sự đánh chiếm đảo của Việt Nam.
Hàng loạt cuộc tập trận đánh chiếm đảo trên Biển Đông (đảo nào? nếu như không phải là Trường Sa?) không phải là để chơi. Trung Quốc sẽ hành động bất cứ khi nào mà Việt Nam mất cảnh giác hoặc khi “trái tim để lầm chỗ trên đầu”.
Một trong những bài tập trận của Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc: Đổ bộ đánh chiếm đảo bằng trực thăng vào tháng 1/2014
Tại sao Trung Quốc muốn chiến tranh hạn chế?
Nếu Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo của Việt Nam thì Việt Nam kiên quyết tự vệ, bảo vệ bằng được chủ quyền mà không chịu khuất phục. Tình thế đó buộc Trung Quốc không thể đánh nhanh, thắng nhanh và không hạn chế được phạm vi khu vực xảy ra tác chiến. Điều này có nghĩa là không có chuyện “đánh một trận nhỏ để không có trận lớn” như họ tưởng và tất nhiên, chiến tranh hạn chế bị phá sản.
Một cuộc chiến tranh không kiểm soát trên Biển Đông sẽ có 3 điều bất lợi xảy ra cho Trung Quốc.
Một là, khuất phục được cả một dân tộc Việt đồng lòng là điều không thể cho bất cứ kẻ thù nào dù hung hãn đến đâu, cho nên, chiến tranh sẽ kéo dài là vô cùng nguy hiểm cho sự ổn định chính trị của Trung Quốc.
Hai là, dòng hàng hóa, năng lượng khổng lồ qua Biển Đông sẽ gián đọan hoặc bị cắt đứt, Trung Quốc buộc phải phân tán lực lượng để bảo vệ hoặc chấp nhận nền kinh tế bị thảm họa là 2 tử huyệt mà Trung Quốc không có và chưa đủ khả năng chống đỡ.
Ba là, sự gián đoạn hàng hải thương mại trên Biển Đông khiến Nhật Bản, Mỹ, Úc…phải ra tay can thiệp để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình sẽ tạo ra cho Việt Nam có nhiều đồng minh tự nhiên.
Đây là 3 lý do quyết định khiến Trung Quốc không muốn hay không dám tiến hành một cuộc chiến tranh lớn trên Biển Đông với Việt Nam.
Đánh chiếm đảo trên Biển Đông bằng một cuộc “chiến tranh hạn chế” hay “xung đột quân sự hạn chế” thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược, nó có 2 nội dung cơ bản là đánh chiếm và bảo vệ thành quả, trong đó bảo vệ thành quả có ý nghĩa quyết định.
Các đảo trên Biển Đông và ngay quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư thì khi tác chiến, bên phòng thủ không có lợi thế bằng bên tấn công. Bởi vậy, bất ngờ dùng vũ lực đánh chiếm được một hoặc hai đảo…trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đồng thời ngăn ngừa hay làm triệt tiêu ý chí phản công của Việt Nam bằng một loạt đối sách về kinh tế, ngoại giao, chính trị…là mục đích, yêu cầu, của cuộc “chiến tranh hạn chế” kiểu Trung Quốc. Đây là bước leo thang cuối cùng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Đương nhiên, Trung Quốc muốn là một chuyện, còn ý chí, bản lĩnh của dân tộc Việt mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng lại là chuyện khác.
Theo Đất Việt
Trung Quốc với chiến thuật lùi một bước, tiến hai bước
Các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông được thực hiện dần theo kiểu vừa tiến vừa lùi, tuy không rầm rộ một lúc nhưng về lâu dài sẽ tích tụ thành thay đổi lớn, một chuyên gia về chính trị và an ninh Đông Nam Á nhận xét.
Tiến sĩ Christopher Roberts, Phó Giáo sư tại Học viện Quốc phòng Australia, chuyên về chính trị và an ninh khu vực Đông Nam Á, trao đổi với PV về các diễn biến Biển Đông.
- Ông đánh giá thế nào việc Trung Quốc đang khai hoang ở Trường Sa gần đây?
- Tôi xem trên Google Earth và thấy Trung Quốc đang tiến hành xây dựng ở Trường Sa. Điều này rất đáng lo ngại. Hành động của Trung Quốc giống như hoạt động của chiếc đồng hồ tích tắc, nếu bạn chăm chú theo dõi thì bạn không thấy sự tiến triển nhiều, nhưng nếu chúng ta ngoảnh đi vài phút và nhìn lại thì sẽ thấy nó thực sự chuyển động. Tôi rất quan ngại khi Trung Quốc cứ cố chứng minh quyền sở hữu của họ ở Trường Sa.
Trung Quốc đã xây dựng trái phép đường băng và nhiều công trình khác trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ảnh: Hinews
Trung Quốc đang áp dụng cái gọi là hai bước tiến một bước lùi ở Biển Đông. Chẳng hạn như trong trường hợp tranh chấp bãi cạn Scaborough với Philippines, khi dư luận thế giới đổ dồn chú ý thì họ rút tàu hải quân về. Tại giàn khoan Hải Dương 981, khi giới truyền thông lên thuyền của Việt Nam ra hiện trường thì họ lại chuyển sang việc xây dựng ở Trường Sa, trong khi vẫn duy trì ở Hoàng Sa.
Vấn đề khiến tôi băn khoăn là thế trung lập ở khu vực này sẽ kéo dài được bao lâu nếu Trung Quốc vẫn hành xử vượt quá quy chuẩn quốc tế như hiện nay. Chẳng hạn như Indonesia, họ thuộc phong trào không liên kết nhưng có xu hướng tiến gần hơn các nước phương Tây về phương diện an ninh. Nhật Bản, Ấn Độ cũng là lựa chọn hợp tác của một số nước Đông Nam Á. Trong vòng 20 năm tới, sẽ có một trật tự mới nếu Trung Quốc tiếp tục đi ngược lại tuyên bố trỗi dậy hòa bình.
- Theo những ý kiến trong một hội thảo về Biển Đông mới đây, giới chuyên gia đang phân tích khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc. Nếu làm điều này Việt Nam được và mất gì?
- Khi yêu cầu phân xử theo luật pháp quốc tế, Việt Nam có thể đòi hỏi làm rõ các yêu sách. Việc này có thể không giúp phán quyết chủ quyền thuộc về Philippines, Malaysia, Brunei, Trung Quốc hay thậm chí Việt Nam, nhưng nó giúp thúc đẩy thương lượng giữa các bên.
Kết quả tối ưu mà Việt Nam có thể đạt được là 80-90% phần Việt Nam tuyên bố chủ quyền được tòa án phán quyết, Việt Nam được kiểm soát các vùng biển đó mà Trung Quốc không thể can thiệp.
Tiến sĩ Robert có các chuyên đề nghiên cứu về Đông Nam Á, Biển Đông và các nước Đông Dương.
Tuy nhiên việc Bắc Kinh tuyên bố từ chối tham gia vụ kiện của Philippines là dấu hiệu cho thấy khả năng Trung Quốc không thỏa hiệp với Việt Nam. Hiện nay Trung Quốc đang tìm cách tác động đến một số nước trong ASEAN, bằng các lợi ích kinh tế, thương mại, để làm giảm động lực đàm phán về bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC).
- Là một nhà nghiên cứu, ông có trải nghiệm thực tế nào về tham vọng của Trung Quốc?
- Tôi từng nói chuyện với một người thuộc Viện nghiên cứu hàng hải ở Bắc Kinh. Ông ấy nói Trung Quốc quan tâm nhất là vùng đặc quyền kinh tế ven biển, bởi vì những khu vực đó dễ dàng khai thác dầu. Tôi nói làm sao có thể như thế được vì các ông không có quyền, ông ta đáp chỉ 10 năm tới, quân đội của Trung Quốc rất mạnh và có thể làm điều đó chỉ trong một phút. Là cán bộ một cơ quan nhà nước, ông ấy suy nghĩ như vậy đấy.
Ở một số hội nghị về châu Á - Thái Bình Dương, trong khi Việt Nam có những phát biểu đề cập tới tình hình khu vực, thì các đại diện của Trung Quốc lại tỏ thái độ đầy cảm xúc tự biện hộ cho mình, thậm chí là hung hăng. Các đại biểu khác chỉ còn biết lắc đầu.
- Tại Australia, các giới nhìn nhận tình hình căng thẳng ở Biển Đông hiện nay như thế nào?
- Sau khủng hoảng ở Afghanistan và Iraq, nhiều giới ở Australia, cả quốc phòng và tình báo, đang tập trung nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến Trung Quốc. Họ quan tâm tới các hành động mà Trung Quốc đang làm với Việt Nam và Philippines. Hiện nay Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn của Australia, nhưng nếu căng thẳng tiếp tục diễn biến, có thể nước này không phải là lựa chọn tốt cho tương lai và chúng tôi phải tìm những lựa chọn thay thế khác.
Nếu không coi trọng hình ảnh cường quốc hòa bình, Trung Quốc có thể bị sa v ào những tính toán sai. Hiện Trung Quốc còn phải đối diện với nhiều áp lực trong nước như kinh tế suy giảm, tham nhũng, khủng bố, vì thế thời gian tới, nước này sẽ trở nên khó đoán hơn.
Theo Vnexpress
Căng thẳng ở Biển Đông do Trung Quốc gây ra có thể vượt tầm kiểm soát Cộng đồng quốc tế thật sự quan ngại về những hành động leo thang căng thẳng của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo Thượng nghị sĩ Australia Scott Ryan, các bên ở Biển Đông phải tôn trọng luật pháp quốc tế và hành động phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển...