Mỹ vạch tội Trung Quốc trên Biển Đông
Trong vòng ít tháng Trung Quốc đã biến các bãi đá trên Biển Đông thành 6 căn cứ quân sự.
Tờ Washington Post mới đây cho đăng bài viết của các chuyên gia Mỹ vạch trần hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Bài viết cũng đề xuất các bước đi cụ thể của Mỹ nhằm đưa Trung Quốc vào “khuôn khổ”.
Kể tội Trung Quốc
Hai tác giả Michael J. Green và Mira Rapp Hooper cho rằng chỉ trong vòng ít tháng Trung Quốc đã biến đổi một số bãi và bãi đá nhỏ trên Biển Đông thành 6 căn cứ quân sự. Đây là hành động gây đe dọa cho một số quốc gia trong khu vực như Philippines và Việt Nam.
Động thái này là diễn biến mới nhất trong một loạt hành động gây hấn của Trung Quốc.
Một xác tàu chiến từ Thế chiến II được binh sĩ Philippines sử dụng để đồn trú ở Scarborough
Hồi năm 2012, các lực lượng hàng hải Trung Quốc đã dồn ép Philippines từ bãi cạn Scarborough (Hoàng Nham) cho tới các tiền đồn ở phía Bắc quần đảo Trường Sa. Cũng trong năm 2012, Bắc Kinh tuyên bố khu vực này nằm dưới quyền quản lý của một khu vực hành chính mới được thành lập.
Tháng 5/2014, các tàu chiến Trung Quốc đã hộ tống đưa giàn khoan dầu khổng lồ “Hải Dương-981 vào vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Việc có các vũng cạn và đường băng tại những căn cứ ở quần đảo Trường Sa sẽ cho phép lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc duy trì sự hiện diện thường trực tại Biển Đông mà không cần phải quay về đất liền để tiếp nhiên liệu hay sửa chữa.
Giới chức Trung Quốc từng cảnh báo rằng cuối cùng khu vực này cũng sẽ được thiết lập Vùng nhận diện phòng không (ADIZ). Theo đó, mọi máy bay muốn đi qua khu vực cần phải đăng ký với chính quyền Bắc Kinh, giống như điều Trung Quốc từng làm trên Biển Hoa Đông.
Video đang HOT
Trung Quốc cũng đã thận trọng khi lựa chọn xây dựng các căn cứ quân sự trên những đảo mà tiềm lực của các nước xung quanh không đủ mạnh để thách thức Trung Quốc, cũng như không hoàn toàn nằm trong diện bảo vệ trong các hiệp ước an ninh của Mỹ. Điều này trái ngược với tình thế ở Biển Hoa Đông, nơi Bắc Kinh phải tránh đụng độ với Lực lượng Phòng vệ trên biển hùng mạnh của Nhật Bản và tránh châm ngòi cho hành động can thiệp của Mỹ liên quan tới quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
Ảnh chụp bãi Gaven vào tháng 3/2014 (trái) và tháng 11/2014 (phải) cho thấy hoạt động xây dựng của Trung Quốc
Đối sách với Trung Quốc
Theo hai chuyên gia Mỹ, nước này không có quyền lợi trong các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, song Washington có lợi ích quan trọng trong việc không để Trung Quốc sử dụng áp lực thay đổi hiện trạng.
Sẽ khó ngăn chặn Trung Quốc bồi đắp đất đá và xây dựng căn cứ trên các đảo, song có thể thực thi nhiều biện pháp khác nhằm khuyến cáo Bắc Kinh không nên đi theo xu hướng này.
Thứ nhất, Washington nên tiếp tục đầu tư giúp xây dựng năng lực cho các quốc gia trong khu vực như Philippines và Việt Nam – những nước bị đe dọa trực tiếp nhất từ sự tăng cường lực lượng nhanh chóng của Bắc Kinh. Đặc biệt, Mỹ nên ủng hộ nỗ lực của các nước Đông Nam Á cải thiện khả năng giám sát hàng hải. Nhật Bản và các đồng minh khác sẵn sàng giúp đầu tư cơ sở hạ tầng và chuyển giao thiết bị.
Thứ hai, hải quân Mỹ cần phải thể hiện rằng các hành động của Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng tới vấn đề tự do hàng hải trong khu vực. Việc Mỹ triển khai luân phiên 4 tàu chiến tới Singapore sẽ giúp ích cho điều này, song những tàu này và các tàu chiến khác thuộc Hạm đội 7 Hải quân Mỹ cũng nên tăng cường hoạt động diễn tập với các đối tác trong khu vực. Bắc Kinh cũng nên hiểu rằng mọi tuyên bố thiết lập ADIZ trên Biển Đông là “không thể chấp nhận được”.
Thứ ba, Washington cần ủng hộ các biện pháp ngoại giao và pháp lý của các nước Đông Nam Á nhằm kiềm chế tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông. Mỹ lâu nay vẫn khuyến khích việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), song Bắc Kinh dường như muốn trì hoãn tiến trình đàm phán.
Trong bối cảnh đó, Washington nên tăng cường ủng hộ các nỗ lực giải quyết tranh cãi bằng luật pháp quốc tế. Philippines đang kiện các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ra tòa án quốc tế và Mỹ nên cung cấp những thông tin chi tiết cho thấy Trung Quốc đang thay đổi nguyên trạng quần đảo Trường Sa.
Mục tiêu chính sách của Mỹ không nhằm đánh bại Trung Quốc trên mặt trận ngoại giao ở châu Á mà là nhằm đưa Bắc Kinh đi theo một con đường ngoại giao trách nhiệm hơn. Mặc dù Washington đã có những bước đi nhỏ theo hướng này song dường như vẫn đang cân nhắc xem hiện tại đã là thời điểm thật sự thích hợp cho một mối quan hệ căng thẳng với Bắc Kinh hay không?
Việc Trung Quốc nhanh chóng tăng cường lực lượng ở Biển Đông sẽ khiến vấn đề này trở nên rõ ràng hơn. Nếu không có một sự phản ứng mạnh mẽ ngay lúc này thì gần như chắc chắn sẽ xảy ra một cuộc đối đầu nguy hiểm hơn trong tương lai.
Theo Đất Việt
Người Trung Quốc nghĩ gì về tranh chấp biển đảo?
Trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ngày càng căng thẳng và diễn biến phức tạp, giới lãnh đạo nước này thường viện cớ rằng, chính sách cứng rắn của Bắc Kinh xuất phát từ áp lực công luận trong nước.
Nhưng sự thực, người dân Trung Quốc có ủng hộ những hành động hung hăng, áp đặt của chính phủ Bắc Kinh nhằm khẳng định chủ quyền trên Biển Đông và biển Hoa Đông hay không? Những kết quả thu được từ cuộc khảo sát "Quan điểm dư luận Trung Quốc về các tranh chấp ở Biển Đông và Hoa Đông" do Trung tâm Mỹ - Á thuộc Đại học Tây Úc thực hiện mới công bố gần đây sẽ phần nào giải đáp câu hỏi này.
Khảo sát được thực hiện vào tháng 3/2013, tức là 3 tháng sau khi Philippines tiến hành khởi kiện Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Liên Hiệp Quốc theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Qua một công ty Trung Quốc, Trung tâm Mỹ - Á đã phỏng vấn qua điện thoại với hơn 1.400 người dân thuộc nhiều tầng lớp khác nhau ở 5 thành phố lớn của Trung Quốc, bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thành Đô và Trường Sa.
Kết quả khảo sát được hoàn chỉnh và xử lý cuối năm 2014 và đăng tải trên truyền thông quốc tế vào tháng 3/2015. Bản khảo sát đã hé lộ nhiều kết quả đáng chú ý về quan điểm của người dân đối với tranh chấp biển đảo của nước này.
Hải quân Trung Quốc trên tàu sân bay Liêu Ninh
Thứ nhất, trong 9 vấn đề quan trọng nhất mà Trung Quốc phải đối mặt, những người khảo sát chỉ xếp vấn đề tranh chấp biển đảo với các nước láng giềng ở vị trí thứ 6 (51,2%), sau các vấn đề: tham nhũng (84,3%); chênh lệch giàu - nghèo (79,7%); an toàn thực phẩm và thuốc men (71,9%); các vấn đề xã hội và đạo đức (53,1%) và ô nhiễm môi trường (52,9%). Trong đó, Thượng Hải và Bắc Kinh là hai thành phố quan tâm đến vấn đề tranh chấp biển nhất với tỷ lệ lần lượt là 67,1% và 65,4% và thu nhập càng thấp thì càng ít quan tâm đến các vấn đề quốc tế xa xôi.
Tác giả khảo sát cũng đưa ra nhận định rằng, "điều này được cho là một dấu hiệu tích cực về vai trò của dư luận trong tranh chấp, vì nó cho thấy rằng những người thể hiện mối quan tâm nhất về vấn đề này là những người sẽ có nhiều thứ để mất nếu xảy ra xung đột - cụ thể là tầng lớp trung lưu và người giàu có.
Thứ hai, về mức độ chú ý đối với tranh chấp biển, tranh chấp ở quần đảo Điếu Ngư/Senkaku với Nhật Bản giành được sự quan tâm nhiều hơn so với Biển Đông. 60% người được hỏi chú ý đến tranh chấp Điếu Ngư/Senkaku, trong khi tỉ lệ này ở Biển Đông là 53%.
Thứ ba, trái với các luồng nhận định bên ngoài về chủ nghĩa dân tộc cực đoan, có phần hiếu chiến của Trung Quốc, đồng thời trái với những gì truyền thông Trung Quốc phản ánh về thái độ của dư luận nước này đối với cách xử lý của chính phủ với tranh chấp biển đảo, những người được khảo sát lại có xu hướng ủng hộ các biện pháp giải quyết hòa bình hơn là dùng vũ lực quân sự.
Trong số 10 biện pháp được liệt kê trong câu hỏi khảo sát thì sử dụng quân đội và "gác tranh chấp, cùng khai thác" là 2 biện pháp nhận được sự ủng hộ thấp nhất, lần lượt là 30,9% và 30,2%. Biện pháp được ủng hộ nhiều nhất là tuyên truyền quốc tế (84,9%), sau đó lần lượt đến các biện pháp khác như tăng cường các hoạt động tuyên truyền, thể hiện chủ quyền; áp dụng cấm vận kinh tế với các nước yêu sách; tổ chức các hoạt động bày tỏ sự phản đối của công chúng; sử dụng các biện pháp ngoại giao; sử dụng cơ chế trọng tài Liên Hiệp Quốc; nhân nhượng qua đàm phán và "ẩn mình, chờ thời".
Các phân tích cụ thể hơn về độ tuổi đối với câu hỏi này cho thấy, những thanh niên Trung Quốc sinh sau năm 1990 (sau sự kiện Thiên An Môn và chịu ảnh hưởng của Chiến dịch giáo dục Lòng yêu nước của Trung Quốc) mặc dù có thể có xu hướng "dân tộc chủ nghĩa" hơn, nhưng họ lại không chọn giải pháp quân sự mạo hiểm nhiều như thế hệ cha, chú của họ. Ngoài ra, tầng lớp trung lưu với thu nhập trung bình hơn 10.000 nhân dân tệ/tháng cũng có xu hướng ủng hộ các biện pháp vũ lực để khẳng định chủ quyền. Đây là một điểm đáng lưu ý khi mà tầng lớp trung lưu trong xã hội Trung Quốc có dấu hiệu tăng lên.
Thứ tư, phần lớn người được hỏi bày tỏ sự tin tưởng khá lớn vào khả năng của quân đội Trung Quốc trong việc "thu hồi" các đảo tranh chấp, với tỷ lệ ở Điếu Ngư/Senkaku là 87% và ở Biển Đông là 85,6%. Khi giả thiết Mỹ sẽ can thiệp quân sự hỗ trợ các đồng minh Nhật Bản và Philippines trong các cuộc xung đột ở biển Hoa Đông và Biển Đông, tỷ lệ lòng tin có giảm đi tương ứng ở từng khu vực, chỉ còn 74% và 72,8%. Tuy nhiên, ý kiến phần đông đều không muốn đi đến chiến tranh trên các đảo tranh chấp ở biển Hoa Đông và Biển Đông, vì cho rằng sử dụng sức mạnh quân sự trong các tranh chấp biển không phù hợp với lợi ích quốc gia của Trung Quốc.
Phần lớn những người được hỏi khẳng định rằng Trung Quốc nên ưu tiên duy trì các mối quan hệ bên ngoài, bất chấp hành động khiêu khích từ các đối thủ. Hơn một nửa (53,6%) người đồng ý rằng, Chính phủ Trung Quốc nên "ưu tiên bảo vệ quan hệ quốc tế của Trung Quốc ngay cả khi Nhật Bản đã thông qua lập trường khiêu khích về vấn đề quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Trong khi đó, 50,7% người cho rằng, nguyên tắc này cũng cần được áp dụng ở Biển Đông.
Các kết quả này càng chứng minh thực tế rằng ý kiến dư luận chính thống của người dân Trung Quốc là dựa trên tính toán lợi ích, nhiều hơn là tình cảm nhất thời. Mặc dù sẽ khó dự đoán được phản ứng của công luận sẽ thay đổi thế nào nếu xảy ra khủng hoảng nhưng số liệu trên cho thấy người dân có thể chấp nhận quan điểm chống chiến tranh dựa trên lợi ích quốc gia, nếu như Đảng Cộng sản Trung Quốc sẵn sàng muốn xuống thang căng thẳng.
Thứ năm, bất chấp việc các yêu sách hàng hải quá đáng của Trung Quốc thường xuyên bị cộng đồng quốc tế chỉ trích và lên án là phi pháp, phi lý, đa phần người được hỏi đều bày tỏ độ tin tưởng cao đối với các yêu sách chủ quyền của nước này. Họ cho rằng các thực thể tranh chấp như Điếu Ngư, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, bãi cạn Scarborough và khu vực hàng hải nằm trong cái gọi là "đường lưỡi bò" đều thuộc về Trung Quốc.
Đặc biệt, nhiều thanh niên sinh sau năm 1990 xem vấn đề tranh chấp đảo này là vấn đề thể diện quốc gia và sự diện diện của các đối thủ tranh chấp, bất kể là Nhật Bản ở Điếu Ngư/Senkaku, hay Việt Nam, Philippines ở Biển Đông đều khiến Trung Quốc mất mặt, thậm chí là sự kéo dài của "thế kỷ ô nhục". Tác giả bản khảo sát cũng lưu ý rằng, sự có mặt hay tiếng nói của Mỹ ở các khu vực này cũng là một yếu tố kích thích tâm lý đó ở người Trung Quốc.
Thứ sáu, về phương tiện thông tin đại chúng có ảnh hưởng đến quan điểm của người dân về tranh chấp biển đảo, truyền hình vẫn là phương tiện quan trọng nhất cung cấp thông tin, định hướng quan điểm đối với hơn 90% những người tham gia khảo sát. Vì truyền hình vẫn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ nên có thể nói Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Bắc Kinh đang sở hữu các công cụ then chốt để định hình quan điểm dư luận về các vấn đề đối ngoại. Các bài viết trên mạng có xu hướng bóc mẽ các yêu sách của Trung Quốc là sai trái, hay chỉ trích hành động của chính phủ không đại diện cho số đông ý kiến dư luận và chỉ có tác động ảnh hưởng nhất định.
Cuối cùng, bản khảo sát kết luận, mặc dù không tránh được những hạn chế nhất định của một cuộc thăm dò ý kiến nhưng khảo sát đã cung cấp những dữ liệu sơ bộ về những quan điểm khác nhau đối với tranh chấp biển trong xã hội Trung Quốc - một điều cho đến nay vẫn còn là ẩn số với nhiều nhà nghiên cứu.
Theo Linh Phương (tổng hợp)
PetroTimes
Indonesia trước ván bài mới Vì là thành viên nhóm vận động tranh cử và chuyển tiếp chính quyền của Tổng thống Joko Widodo, đồng thời là một trong những người soạn thảo chiến lược "Điểm tựa an ninh biển toàn cầu" của Indonesia nên tuyên bố hôm 4/3 của Tiến sĩ Rizal Sukma, Giám đốc điều hành Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) của...