Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6% đến 6,5% là thách thức rất lớn
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông nhận định, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Mặc dù, những con số tăng trưởng về nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ… trong 5 tháng đầu năm 2022 cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông nhận định, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Do đó, những tháng còn lại các cấp, các ngành cần bám sát tình hình, làm tốt công tác dự báo, chủ động xây dựng kịch bản, giải pháp điều hành, phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện…
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tại Công ty may Hưng Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ảnh (minh họa): Trần Việt/TTXVN
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), tiếp nối đà phát triển của quý I và tháng 4, tình hình kinh tế tháng 5 tiếp tục khởi sắc trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng, khởi sắc với nhiều tín hiệu tích cực.
Cụ thể, 5 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 152,81 tỉ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, xuất siêu 516 triệu USD trong khi cùng kỳ năm trước nhập siêu 1,24 tỉ USD.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 147.800 tỉ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước tính đạt 7,71 tỉ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với đó, cả nước có 98,6 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 5 tháng đầu năm 2022, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 19,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động…
Điều đáng nói là, sản xuất công nghiệp, “xương sống” của nền kinh tế có nhiều tín hiệu lạc quan: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5.2022 ước tính tăng 4% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 12,1%.
Cùng với sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp cũng lạc quan, chăn nuôi phát triển ổn định, tổng số lợn đến thời điểm cuối tháng 5.2022 ước tính tăng 5,7%; gia cầm tăng 1,9%; tổng số bò tăng 1,6% so với cùng thời điểm năm 2021…
PGS-TS Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính đánh giá, trong 5 tháng đầu năm 2022, giải ngân vốn của các dự án đầu tư nước ngoài tăng 7,8%, xuất khẩu tăng 16,3%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,7%, đều là các con số khả quan.
Video đang HOT
Đặc biệt, nhờ chính sách mở cửa, vận tải hành khách tháng 5.2022 khôi phục mạnh mẽ với số lượt hành khách vận chuyển tăng 34% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển tăng 45,7%. Vận tải hàng hóa tiếp tục phát triển tích cực với tốc độ tăng 22,8% về vận chuyển và tăng 22,4% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước.
5 tháng đầu năm 2022, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 365.300 lượt người, tăng gấp 4,5 lần so với cùng kỳ năm trước.
Thứ trưởng Trần Duy Đông nhận định, tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tình hình khu vực và thế giới diễn biến khó lường, giá cả nguyên vật liệu đầu vào, nhất là xăng, dầu tăng cao, tác động từ tình hình xung đột Ukraine, chính sách của các quốc gia sau dịch COVID-19. Cùng với đó là sức ép lạm phát tăng mạnh; thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản tiềm ẩn rủi ro; nợ xấu có xu hướng tăng.
“Kinh tế trong nước phục hồi tích cực nhưng chưa đạt kỳ vọng đề ra; hoạt động sản xuất, kinh doanh còn khó khăn, cần độ trễ để phục hồi, trong khi một số chính sách hỗ trợ chậm được triển khai…”, Thứ trưởng Trần Duy Đông nhấn mạnh.
Kịp thời tháo gỡ, đề xuất xử lý các khó khăn, vướng mắc
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ, đề xuất xử lý các khó khăn, vướng mắc trong thực tế; đồng thời, phối hợp với các cơ quan của Quốc hội giải quyết các điểm nghẽn về quy hoạch, đầu tư công, chương trình phục hồi nhanh và phát triển bền vững, các chương trình mục tiêu quốc gia, các vấn đề liên quan tới vật liệu xây dựng, đất rừng, đất lúa… mà nhiều địa phương kiến nghị.
Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu xác định giải ngân vốn đầu tư công là một nhiệm vụ trọng tâm để vừa giải quyết các nút thắt, bức xúc của nhân dân, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa phát triển đột phá chiến lược về hạ tầng; rà soát điều chuyển kế hoạch đầu tư vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang dự án có tiến độ giải ngân tốt.
“Đối với Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế là chương trình lớn, chưa có tiền lệ nên không tránh khỏi vướng mắc, nhưng các địa phương cần phải nắm chắc tình hình và xử lý kịp thời”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Đối với Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương cho biết, Bộ KH&ĐT đã có công văn hướng dẫn đề nghị các bộ, ngành, địa phương khẩn trương hoàn thành các thủ tục phê duyệt các chủ trương đầu tư này trong thời gian sớm nhất để Bộ KH&ĐT tổng hợp.
Sau đó, Bộ KH&ĐT sẽ tổng hợp danh mục các dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư trình Chính phủ xem xét, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi phê duyệt. Đây là quy định theo Luật Đầu tư công, Nghị quyết 43 của Quốc hội. Bước này, Bộ KH&ĐT sẽ thực hiện vào quý III/2022.
Sau khi phân bổ kế hoạch xong, tức là sau khi Quốc hội phê duyệt xong, Thủ tướng sẽ thực hiện giao cụ thể kế hoạch danh mục dự án, số vốn cho các bộ, ngành địa phương liên quan.
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương phải phê duyệt quyết định đầu tư các chương trình dự án trong chương trình phục hồi. Sau khi phê duyệt kế hoạch đầu tư, các địa phương có vốn mới và có thể bắt đầu triển khai các hoạt động, các biện pháp giải ngân là giải phóng mặt bằng, đấu thầu thi công.
Cùng với việc đẩy nhanh các dự án đầu tư, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú cho biết, trong chương trình tổng thể phục hồi phát triển kinh tế của Chính phủ, về phía Ngân hàng Nhà nước có gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng, hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp, những đối tượng theo Nghị định 31 về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Đây là một trong những chương trình rất quan trọng. Các ngân hàng thương mại cùng với các ngân hàng nhà nước, các bộ, ngành đang triển khai tích cực.
Đặc biệt, trong bối cảnh giá xăng, dầu tăng cao, Thứ trưởng Bộ Tài chính Tạ Anh Tuấn cho biết, Bộ Tài chính đã xin ý kiến các bộ, ngành báo cáo Chính phủ về biểu thế xuất nhập khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi; trong đó, có đề xuất điều chỉnh giảm thuế suất nhập khẩu ưu đãi với xăng từ 20% xuống 12% nhằm đa dạng hoá các nguồn cung xăng dầu.
“Còn thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng, không có quy định về việc miễn giảm thuế đối với hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Mặt khác, thuế tiêu thụ đặc biệt của chúng ta hiện nay với mặt hàng xăng cũng đang ở mức thấp trên thế giới”, Thứ trưởng Tạ Anh Tuấn cho hay.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, Bộ Công Thương đã và đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính thực hiện nhất quán theo Nghị định 83 về kinh doanh xăng dầu và Nghị định 95 về sửa đổi một số nội dung của Nghị định 83 trong điều hành giá xăng dầu, nhằm mang lại những thuận lợi nhất trong điều kiện có thể đối với người dân và doanh nghiệp.
Bộ Công Thương có quan điểm là giá xăng, dầu muốn giảm được mức tăng không phải chỉ có riêng Bộ Công Thương và Bộ Tài chính mà đây còn là trách nhiệm của Chính phủ và của các bộ, ngành khác. Vì vậy, cần hướng tới đề xuất những chính sách an sinh cho người dân, hướng đến những đối tượng người nghèo, hộ chính sách… và phải tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp trong bối cảnh xăng, dầu tăng như hiện nay.
“Với những biện pháp hiện nay và sắp tới, Bộ Công Thương sẽ cố gắng ở mức cao nhất để đảm bảo điều chỉnh mức giá xăng dầu trong khả năng cho phép”, Thứ trưởng Hải tin tưởng.
Trước diễn biến của tình hình trong nước và quốc tế, việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2022, nhất là mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6% đến 6,5% sẽ là thách thức rất lớn.
Cần tận dụng cơ hội từ Hiệp định EVFTA và các biện pháp ứng phó phù hợp
Ngày 25/2, tại Hà Nội, Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội thảo Tác động của Hiệp định EVFTA sau đại dịch COVID-19 và các biện pháp ứng phó phù hợp.
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tại Công ty may Hưng Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, từ sau khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) có hiệu lực, hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đã có sự tăng trưởng ấn tượng.
Chỉ tính riêng năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn đạt 40,06 tỷ USD, tăng 14,1% so với năm 2020; kim ngạch nhập khẩu từ EU là 16,89 tỷ USD, tăng 15,3% so với năm 2020.
Cùng với đó, sau hơn 1 năm thực thi EVFTA, tỷ lệ doanh nghiệp nắm bắt và tăng dần sử dụng ưu đãi thuế quan từ hiệp định này. Cụ thể, từ khi EVFTA có hiệu lực đến hết năm 2020, kim ngạch xuất khẩu sử dụng EUR.1 là 2,35 tỷ USD; tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan là 15,1% thì trong 7 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu sử dụng EUR.1 là 5,15 tỷ USD; tỷ lệ sử dụng ưu đãi thuế quan là 22,5%
Về thu hút đầu tư trực tiếp từ EU vào Việt Nam, TS John FitzGerald , Trường đại học Trinitry (Ireland) cho biết, đã có những tín hiệu tích cực, nhưng FDI từ EU vào Việt Nam vẫn được đánh giá ở mức "khiêm tốn"; trong khi đó, dòng vốn ngoại vào Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn vẫn là các quốc gia đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc. Đây chính là cơ hội để EU tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới.
Còn theo chuyên gia kinh tế TS. Lê Đăng Doanh, EVFTA được ký kết đã minh chứng cho thành công của Việt Nam trong thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa kinh tế đối ngoại, tránh phụ thuộc vào một thị trường, một nguồn cung ứng duy nhất và giảm sức ép rủi ro cho nền kinh tế.
"Việt Nam và EU là 2 nền kinh tế bổ sung cho nhau, nên việc thực hiện EVFTA khiến cả 2 bên đều có lợi. Việt Nam có thể nhập khẩu từ EU những sản phẩm mà chúng ta không làm được. Ngược lại, EU lại có thể nhập khẩu từ Việt Nam những sản phẩm mà chúng ta có thế mạnh như tôm, dệt may và các sản phẩm nông sản. Việc thực thi EVFTA không chỉ tạo lợi thế, lợi ích bổ sung cơ cấu kinh tế mà còn thúc đẩy quá trình cải cách thể chế của Việt Nam...", TS. Lê Đăng Doanh nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia thương mại, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát đã ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động thương mại và đầu tư của thế giới cũng như Việt Nam, việc thực thi Hiệp định EVFTA mang lại ý nghĩa quan trọng giúp bù đắp sự suy giảm của nền kinh tế và mang đến cơ hội thị trường đa dạng hơn cho doanh nghiệp cũng như tạo đà tăng trưởng hậu dịch bệnh. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp có thể tham gia chuỗi cung ứng mới thay thế cho các chuỗi cung ứng truyền thống vốn đang bị đứt đoạn hoặc đình trệ do dịch COVID-19.
Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, Việt Nam có thuận lợi rõ nhất là Hiệp định EVFTA với các ưu đãi cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường mạnh mẽ tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam lợi thế cạnh tranh rất lớn khi tiếp cận và khai thác hiệu quả thị trường EU; đồng thời, EU cũng là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới với giá trị nhập khẩu hàng hóa từ các thị trường ngoại khối đạt 2.160,2 tỷ USD trong năm 2020.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực mà EVFTA mang lại, các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, do năng lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế nên gặp bất lợi trong tận dụng các ưu đãi thuế quan. Cụ thể là với ngành dệt may Việt Nam, do công nghiệp phụ trợ của ngành này còn hạn chế, Việt Nam lại chủ yếu nhập khẩu linh kiện ngoài khối, nên không tận dụng được nhiều ưu đãi từ EVFTA.
Để tận dụng tốt hơn cơ hội từ EVFTA hậu COVID-19, bà Nguyễn Thị Thu Trang cho rằng, trước hết, cần nâng cao năng lực cho khu vực trong nước. Theo đó, các doanh nghiệp cần chủ động trong mọi hoạt động thương mại. Bên cạnh đó các cơ quan chức năng cũng cần có sự hỗ trợ cần thiết liên quan đến thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh thông qua hoàn thiện thể chế trong bối cảnh bình thường mới, cải cách thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục liên quan đến xuất, nhập khẩu...
Với các cam kết trong EVFTA về phát triển bền vững, thương mại số sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận công nghệ "số và xanh" hiện đại và tiên tiến của EU.
Điều này sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng "đi tắt đón đầu" hướng đến kinh tế số và xanh, thân thiện môi trường, chuyển đổi sang công nghệ tiêu chuẩn cao, giúp hàng hóa Việt Nam có ưu thế về chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường cao như thị trường EU. Hơn nữa, xu hướng chuyển dịch chuỗi sản xuất và dòng đầu tư sẽ mang lại cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc gia tăng sức cạnh tranh và thu hút đầu tư từ EU với nền tảng vững chắc từ EVFTA.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, các nhà đầu tư châu Âu có ưu thế về công nghệ sẽ góp phần tích cực trong việc tạo lập một số ngành nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao; đặc biệt, dòng đầu tư từ EU vào Việt Nam về trung hạn và dài hạn sẽ gia tăng đáng kể với nhiều dự án chất lượng có giá trị cao, đồng thời đẩy mạnh hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
Vực dậy nguồn lực lao động giai đoạn hậu COVID-19 Các lãnh đạo doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đã thảo luận về tầm quan trọng của các giá trị đa dạng, hòa nhập và bình đẳng giới trong việc phục hồi lực lượng lao động và tăng trưởng kinh tế tại diễn đàn mang tên "Vực dậy nguồn lực lao động trong giai đoạn phục hồi hậu COVID-19 - Xây dựng nơi...