Mùa xuân, cảnh giác bệnh thủy đậu
Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm, dễ lây lan. Bệnh thủy đậu còn được gọi là bệnh phỏng dạ và thường hay xuất hiện vào mùa đông – xuân, bệnh gây nên bởi một loại virut Varicella – Zolster. Virut này rất có ái tính với da, niêm mạc và hệ thống thần kinh. Bản chất của bệnh thủy đậu là một bệnh lành tính nhưng cũng có thể có một số bị biến chứng và biến chứng nguy hiểm. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng trẻ em từ 2 – 10 tuổi hay gặp nhất .
Nhận diện bệnh thủy đậu
Bệnh thủy đậu thường có 2 thể bệnh chính: thể thông thường, điển hình và thể thủy đậu bất thường. Đối với thể thông thường khi bệnh khởi phát có sốt nhẹ (khoảng 38oC) và viêm long đường hô hấp trên như chảy nước mũi, đau mình, mệt mỏi, trẻ hay quấy khóc, ăn kém. Đôi khi ở thời kỳ này có thể sốt cao 39 – 40oC, xuất hiện một số triệu chứng về thần kinh như trằn trọc khó ngủ, mê sảng. Thời kỳ toàn phát, ban xuất hiện khá nhanh, mới đầu là các nốt sẩn đỏ giống với ban sởi xuất hiện ở vùng da đầu, gáy, bụng, lưng, ngực, sau vài giờ các ban phát triển thành nốt phỏng rải rác khắp thân mình và tứ chi (trừ gan bàn chân, bàn tay). Đặc điểm của của nốt phỏng là nước trong, rất nông, tròn hay bầu dục, có vòng đỏ bao quanh, một số nốt thủy đậu hơi lõm ở trung tâm và nốt phỏng thủy đậu mọc không theo tuần tự (khác với sởi là ban mọc tuần tự). Ban, nốt phỏng mọc hết đợt này đến đợt khác cách nhau từ 2-3 ngày, vì vậy trên cùng một vùng da các ban mọc không cùng một lứa tuổi (có ban đỏ, có nốt phỏng nước, có nốt đã bong vảy…). Một số vùng niêm mạc như trong vòm miệng, niêm mạc âm đạo… cũng có thể có các nốt phỏng thủy đậu. Khi các ban và nốt phỏng xuất hiện thường có ngứa cho nên bệnh nhân gãi nhiều làm vỡ các nốt phỏng rất dễ làm nốt thủy đậu nhiễm khuân. Đặc điểm của thủy đậu là các nốt phỏng chỉ có một ngăn cho nên khi bị thủng là dịch chảy ra và xẹp ngay. Ngoài ngứa có thể nôi hạch ngoại biên như hạch nách, hạch bẹn, cổ… nhưng hạch tồn tại trong thời gian ngắn rồi xẹp dần. Thời kỳ lui bệnh chỉ sau khoảng từ 24 – 48 giờ thì các nốt phỏng sẽ ngả sang màu vàng và vỡ ra, sau khi khỏi thì không để lại sẹo trừ trường hợp bị bội nhiễm vi khuẩn. Thông thường mỗi một nốt thủy đậu kéo dài khoảng 5 – 6 ngày rồi khô lại, đóng vảy. Màu của nốt thủy đậu lúc này là màu nâu xám và bong sau khoảng một tuần lễ. Bên cạnh thủy đậu thông thường có thể gặp loại thủy đậu bất thường. Thủy đậu bất thường ít khi gặp chỉ thấy ở những trường hợp bội nhiễm vi khuẩn thì nốt thủy đậu có mưng mủ dễ nhầm với nốt đậu mùa. Ơ những bệnh nhân mắc bệnh về máu thì nốt thủy đậu có thể có máu hoặc bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng thì nốt thủy đậu có thể có hoại tử. Thủy đậu cũng có thể gây viêm niêm mạc miệng, niêm mạc âm hộ, âm đạo, viêm tai ngoài, viêm tai giữa, viêm thanh quản. Một số trường hợp nặng có thể gây viêm thận cấp (tiểu ra máu) nhưng sau khoảng vài tuần sẽ khỏi. Thủy đậu cũng có thể gây viêm não – màng não là một biến chứng hết sức nguy hiểm. Trong giai đoạn đầu của bệnh thủy đậu có thể nhầm với bệnh viêm đường hô hấp, sởi, bệnh Rubella. Một số trường hợp khi mắc bệnh thủy đậu thể nhẹ (đặc biệt là người trưởng thành) và chỉ có ở tay hoặc chân kèm theo ngứa có thể nhầm với viêm da dị ứng do các bệnh sốt phát ban khác hoặc bệnh ghẻ. Bệnh thủy đậu cũng có thể nhầm với bệnh zona (đây là một bệnh gây nên do cùng một loại virut gây bệnh thủy đậu). Bệnh zona thường có các nốt phỏng mọc theo dọc dây thần kinh và thường chỉ có một bên của cơ thể (một bên lưng, một bên ngực, một bên mặt…).
Quá trình thâm nhiễm, phát triển và thoái lui của bệnh thủy đậu.
Video đang HOT
Phòng bệnh thủy đậu như thế nào?
Cách ly với người bệnh: Khi trong gia đình hay một tập thể (nhà trẻ, lớp mẫu giáo) có trẻ mắc bệnh nghi do thủy đậu cần được cách ly trẻ bệnh với trẻ lành (cho trẻ ở nhà với gia đình không nên đến lớp học). Những người lớn mà chưa bao giờ bị bệnh thủy đậu cũng cần tránh tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu. Mặt khác bệnh thủy đậu ngoài lây theo đường hô hấp còn có thể lây trực tiếp từ các nốt phỏng cho nên khi trẻ chỉ có vài ba nốt thủy đậu cũng cần được cách ly với người lành. Cần vệ sinh giường, chiếu, đồ dùng sinh hoạt của bệnh nhân. Nên cho trẻ nằm trong phòng thoang nhưng kín gió, không ẩm ướt. Cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ để nâng cao sức đề kháng. Phòng bệnh tốt nhất vẫn là dùng vaccin cho trẻ và cả người lớn chưa có miễn dịch với bệnh thủy đậu.
Phòng nốt thủy đậu lây lan trên cơ thể: Để tránh bệnh thủy đậu lây lan ra nhiều vùng da trên cơ thể và lây lan cho người khác thì khi bị mắc bệnh cần giữ vệ sinh da sạch sẽ để tránh nhiễm khuân. Co thể dùng lá ổi rửa sạch, cho nước vào đun sôi, để hơi ấm rồi dùng vải thô sạch nhúng nước lá ổi lau nhẹ nhàng, tránh làm xây xước da (vì làm xước da, nước trong nốt phỏng chảy đến đâu sẽ gây nốt ban thủy đậu đến đó). Sau khi lau, tắm xong cũng dùng vải thô sạch thấm khô da rồi mặc quần, áo rộng, thoáng. Khi có nhiều nốt phỏng vỡ cần đi kham để được hương dân điều trị phòng sốc do mất nước, nhiễm khuân, nhiễm độc bởi độc tố vi khuẩn.
Chẩn đoán bệnh thủy đậu như thế nào? Muốn chẩn đoán bệnh thủy đậu trước hết nên dựa vào một số đặc điểm như bệnh khởi phát đột ngột, sốt nhẹ, ban mọc ngay ngày đầu của bệnh. Ban chỉ có nốt phỏng nước, không có mủ (nếu không bị nhiễm khuẩn). Ban mọc không tuần tự, trên một vùng da ban mọc thành nhiều đợt, mỗi một đợt cách nhau khoảng từ 3 – 4 ngày. Nếu có điều kiện xét nghiệm công thức máu sẽ thấy bạch cầu máu ngoại vi giảm nhưng lymphocyt tăng. Ngoài ra có thể dựa vào tính chất dịch tễ học, ví dụ như trong một nhà trẻ, lớp mẫu giáo đã có một số cháu mắc bệnh tương tự nhất là các cháu chưa bao giờ bị mắc thủy đậu.
PGS.TS.TTƯT.Bùi Khắc Hậu
Theo SK&ĐS
Nhìn vết thương biết sức kháng bệnh
Tiến độ lành vết thương ngoài da, vết loét trên niêm mạc là dấu hiệu phản ánh tuy gián tiếp nhưng trung thực về khả năng phòng vệ và nguồn dự trữ dưỡng chất của cơ thể nạn nhân.
Vết thương khó lành cũng như dễ để sẹo nếu sức đề kháng suy yếu lại thêm không đủ chất kiến tạo.
Vết thương nếu cứ nay nhiễm khuẩn, mai nhiễm nấm tất nhiên khó lành. Thanh trùng vết thương đúng cách là chuyện tất nhiên, nhưng nếu tưởng vết thương lâu lành chỉ vì bội nhiễm thì nhầm. Đừng quên bàn tay phá hoại trong bóng tối của một số căn bệnh nghiêm trọng như tiểu đường, bệnh tuyến giáp, viêm da thần kinh... Do đó, nên đến thầy thuốc nếu vết thương không mấy nghiêm trọng ngoài da nhưng kéo dài nhiều ngày để kịp thời tầm soát bệnh khác.
Muốn vết thương mau lành cũng từa tựa như trợ vốn làm ăn. Nếu thiếu chất đạm, chất béo cần thiết cho cấu trúc mô hạt và mô liên kết, nếu thiếu hoạt chất ảnh hưởng trên hệ miễn dịch như sinh tố A, C, acid folic và khoáng tố kẽm, selen... thì vết thương, vết loét cho dù có được chăm sóc bao nhiêu cũng khó lành.
Vết thương tầm thường ngoài da nếu lâu lành bao giờ cũng có lý do nào đó khiến cơ thể: hoặc thiếu dưỡng chất vì không được bổ sung kịp thời, hoặc do thất thoát nhưng gia chủ không ngờ (nguôn anh internet)
Trong số đó, bên cạnh dưỡng khí, quan trọng hàng đầu là kẽm. Tình trạng thiếu kẽm khiến vết thương khó lành càng rõ nét hơn nữa ở người cao tuổi, người bệnh tiểu đường, bệnh gan, bệnh thận.
Thêm vào đó, cho dù ăn đủ khoáng tố nhưng kẽm vẫn có thể bị thất thoát do tác dụng của một số thuốc khi dùng dài lâu, chẳng hạn thuốc kháng sinh, lợi tiểu, tẩy xổ, trị bệnh gout, ngừa thai, thuốc chứa corticoid, thuốc hạ huyết áp, hạ mỡ trong máu...
Trái với các khoáng tố vi lượng khác, kẽm là kháng tố không được dự trữ trong cơ thể. Chỉ cần vài ngày không được cung ứng qua thực phẩm hay nhu cầu dùng kẽm bất ngờ bội tăng (chẳng hạn vì stress) thì cơ thể hết kẽm! Người dùng các loại thuốc này nên được bổ sung kẽm càng thường xuyên càng tốt, nhất là khi vừa có vết thương ngoài da, ngay cả dưới dạng thuốc uống.
Vết thương nào cũng cần thời gian. Tuy vậy, chuyện gì cũng có giới hạn. Vết thương tầm thường ngoài da nếu lâu lành bao giờ cũng có lý do nào đó khiến cơ thể hoặc thiếu dưỡng chất vì không được bổ sung kịp thời hoặc do thất thoát nhưng gia chủ không ngờ. Tìm không ra nguyên nhân thì đừng nói đến việc vì sao vết thương không lành.
Trị bệnh tận gốc khác xa đau đâu chữa đó!
(Theo Ngươi lao đông)
Trị chứng lạnh tay, chân Tay chân lạnh như kem dù đã ủ trong tất, găng dày và ngay cả khi chui vào chăn ấm thì tình trạng này cũng kéo dài tưởng như không dứt. Để trị được chứng khó chịu này, bạn cần biết rõ nguyên nhân. Tại sao chân tay lạnh? Hệ tuần hoàn có vấn đề: Tim suy yếu khiến huyết dịch không thể...