Mùa thu lượm hạt dẻ rừng nơi đại ngàn Mường Phăng-Pá Khoang
Để tiếp cận được những cây dẻ, người dân phải đi vào rừng từ sáng sớm, len lỏi vào rừng bằng những con đường mòn, rồi cắt rừng rậm rạp tìm đến những cây dẻ sai quả.
Hạt dẻ vùng cao tuy bé nhưng nhân hạt chắc, trắng tinh, khi rang chín có mùi rất thơm. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Theo người dân các xã Mường Phăng, Pá Khoang (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), mùa thu lượm hạt dẻ rừng diễn ra từ đầu tháng 10 đến cuối tháng 12 hằng năm.
Thời điểm này, hạt dẻ trên rừng đặc dụng Mường Phăng-Pá Khoang “chín” rộ nhất. Nhiều người dân địa phương cắt rừng, ngược núi thu lượm hạt dẻ, tạo thu nhập cho gia đình khi công việc làm nương, ruộng đồng trong năm đã vãn.
Rừng đặc dụng Mường Phăng có diện tích hơn 4.400ha trải rộng trên địa bàn hai xã Pá Khoang và Mường Phăng (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên).
Ngoài chức năng đảm bảo giữ nguồn nước, điều hòa ổn định lượng nước cho hồ thủy lợi Pá Khoang, phục vụ các công trình thủy điện vùng hạ lưu và nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho cánh đồng Mường Thanh, rừng đặc dụng Mường Phăng còn gắn liền với đời sống, sinh kế của người dân ở hơn 40 bản sống xen kẽ trong rừng.
Những ngày này, hai tuyến đường vào rừng dễ dàng bắt gặp những nhóm người hối hả lên rừng nhặt hạt dẻ. Đặc biệt, tại các chân cầu của các cây cầu treo nối các đảo nhỏ trong hồ Pá Khoang, nằm ở các bản Đông Mệt 1, Đông Mệt 2, Đông Mệt 3 (xã Pá Khoang), người dân tập kết bao tải, gùi hạt dẻ hái lượm từ rừng về đây để loại bỏ hạt kém chất lượng trước khi đem rửa.
Chị Lò Thị Nhung, bản Đông Mệt 1, xã Pá Khoang, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên cho biết cứ đầu tháng 10, khi thu hoạch xong vụ lúa mùa, người dân tại các bản lại háo hức gọi nhau len rừng nhặt hạt dẻ.
Hạt dẻ rừng thu lượm ở đại ngàn Mường Phăng-Điện Biên có kích thước nhỏ như đầu đũa, hạt già có màu nâu, nhân hạt chắc, trắng tinh.
Sau khi nhặt trên rừng về, người dân đem hạt dẻ rửa sạch bụi đất bám trên vỏ hạt và sàng lọc những hạt lép, xấu, chất lượng kém mới đem đi bán. Giá trị của hạt dẻ rừng nằm ở nhân hạt, khi rang chín, nhân có mùi thơm, bùi.
Theo nhiều người dân địa phương, hàng chục năm trước, những hộ người Thái đầu tiên về đây định cư, lập bản, trong quá trình cắt rừng tìm đất làm nương trồng lúa, ngô, sắn, lên rừng hái rau, săn bắt thú nhỏ đã biết đến hạt dẻ. Nhưng chỉ hơn 10 năm nay, khi nhu cầu thị trường tăng, việc thu lượm hạt dẻ mới được nhiều người dân trong các bản tham gia. Ngày nay, việc thu hái hạt dẻ không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà có cả nam giới tham gia, trẻ em cũng phụ giúp bố mẹ.
Anh Lò Văn Xuyên, bản Phăng, xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên cho biết những tháng đầu năm nay, đặc biệt là vào tháng Năm vừa qua, tỉnh Điện Biên chịu những đợt nắng nóng kéo dài dẫn đến khô hạn, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, nhất là đối với các huyện vùng cao.
Người dân lo lắng mùa dẻ năm nay sẽ thất thu. Nhưng vào mùa thu hoạch, dẻ cho chất lượng hạt đều. Lượng hạt dẻ thu về mỗi ngày của người dân trong bản có phần nhiều hơn các năm trước.
Có lẽ, khí hậu ở đại ngàn rừng đặc dụng Mường Phăng-Pá Khoang khá ổn định, nền nhiệt độ ở khu vực dao động từ 26-30 độ C các mùa trong năm nên không ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây dẻ và các loài thực vật trong rừng.
Chị Lò Thị Hin, bản Đông Mệt 2, xã Pá Khoang, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chia sẻ hạt dẻ thu lượm từ rừng về, sau khi nhặt, rửa để loại bỏ lá cây, mùn đất, bụi bám, được người dân phân ra hai loại theo kích thước. Loại hạt to có giá bán tại chỗ từ 9.000 đến 10.000 đồng/kg, loại nhỏ có giá bán 8.000 đồng/kg.
Video đang HOT
Mỗi ngày, một người đi lượm hạt dẻ thu về từ 70.000 đến 100.000 đồng. Đang lúc nông nhàn, thu nhập mang về từ việc thu lượm, bán hạt dẻ cũng góp phần trang trải phần nào chi tiêu của gia đình.
Hạt dẻ rừng nơi đại ngàn Mường Phăng được coi là một sản vật mà thiên nhiên ban tặng cho người dân nơi đây. Tuy nhiên, công việc thu lượm hạt dẻ không dễ dàng mà cần nhiều thời gian, sự cần mẫn, kiên trì.
Để tiếp cận được những cây dẻ, người dân phải đi vào rừng từ sáng sớm, len lỏi vào rừng bằng những con đường mòn, rồi cắt rừng rậm rạp tìm đến những cây dẻ sai quả.
Người dân rửa và loại bỏ những hạt dẻ lép sau khi thu hoạch. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Việc phải ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán rừng rậm, thâm u trong điều kiện thời tiết ẩm ướt, nhiệt độ giảm so với khu vực rìa rừng; cùng với đó, mùi mồ hôi cơ thể, hơi thở và tiếng động khi di chuyển của mọi người cũng đánh động sự xuất hiện của nhiều loại côn trùng, nhất là muỗi và vắt, kiến, ong.
Do đó, để tránh muỗi, vắt, rắn tấn công,” người đi rừng phải tự trang bị cho mình ủng, giày, khăn quàng cổ, mũ rộng vành, áo dài tay…
Trước lúc vào rừng, trang phục phải kín đáo, nai nịt gọn gàng. Một vật dụng cần thiết, bắt buộc người đi thu lượm hạt dẻ phải mang theo là đôi găng tay để tránh bị lớp vỏ gai của quả dẻ đâm vào tay trong quá trình cào bới lớp lá khô để tìm, nhặt hạt dẻ trong rừng.
Để hỗ trợ nhau đưa những bao tải hạt dẻ ra khỏi rừng, người đi thu lượm hạt dẻ cũng thường chia thành nhóm từ 2 đến 4 người.
Một điều đặc biệt liên quan đến hạt dẻ của đại ngàn Mường Phăng-Pá Khoang mà bà Thẳm Thị Hiên – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Mường Phăng chia sẻ là qua quá trình đi thu lượm hạt dẻ, người dân trên địa bàn quan sát và rút ra được kinh nghiệm hay, có ích cho chăn nuôi, trồng trọt. Đó là cứ năm nào mùa hạt dẻ đến sớm, cuối năm đó thời tiết trên địa bàn sẽ xuất hiện những đợt lạnh sâu, kéo dài.
Theo Ban Quản lý rừng di tích và cảnh quan môi trường Mường Phăng (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Điện Biên), lực lượng làm công tác quản lý, bảo vệ rừng của đơn vị cũng thường xuyên bám sát địa bàn, thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát rừng theo lịch, theo kế hoạch; xây dựng hệ thống cộng đồng có chức năng bảo vệ rừng; phối hợp với chính quyền địa phương, chủ rừng tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giúp người dân xây dựng các quy ước bảo vệ rừng.
Nhờ có các chính sách hỗ trợ về dịch vụ chi trả môi trường đảm bảo cuộc sống của người dân, tình trạng phá rừng trái pháp luật đã giảm đáng kể. Ý thức bảo vệ rừng của người dân các xã Mường Phăng, Pá Khoang ngày càng nâng lên./.
Sau khi thu hoạch xong vụ lúa mùa, người dân tại các bản trong xã lại vào rừng nhặt hạt dẻ. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Hải An-Tuấn Anh
Theo vietnamplus.vn
Khám phá đỉnh Pú Huốt - Mường Phăng
Thuộc dãy núi Pú Đồn, đỉnh Pú Huốt cao hơn 1.700 m so với mực nước biển. Tại đỉnh núi này, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho đặt Đài quan sát để theo dõi, nắm bắt tình hình, diễn biến chiến trường lòng chảo Mường Thanh.
Từ sau chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, cùng với Sở Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ (thuộc xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), đỉnh núi Pú Huốt đã trở thành di tích lịch sử vô giá.
Đường lên đỉnh Pú Huốt
Theo chỉ dẫn của Phó Chủ tịch UBND xã Mường Phăng Mùa A Kềnh, chúng tôi lựa chọn chinh phục đỉnh Pú Huốt từ hướng bản Khá (xã Mường Phăng). Cung đường này ngắn hơn, lối mòn dễ nhận biết hơn và đặc biệt hướng đi này có 3 con suối nhỏ là những điểm dừng chân lý tưởng. Tuy nhiên, đổi lại quãng đường này có nhiều dốc cao hơn, gặp mưa rừng bất chợt thì đường sẽ trơn trượt.
Đỉnh Pú Huốt hình dáng nhọn, như chiếc sừng cắm thẳng lên trời. Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN
Theo nghĩa tiếng Thái, Pú Huốt nghĩa khác là "Sừng Trời". Vượt qua mạn sườn núi đầu tiên để đến được con suối nhỏ thứ nhất, chúng tôi cảm nhận được sự vất vả, khó nhọc bởi con đường nhỏ nhằm hướng đỉnh núi Pú Huốt trở nên dốc, trơn. Sau hàng chục phút đi bộ, vượt qua con suối thứ 2, chúng tôi đi vào "yên ngựa".
Đường đi lúc này đỡ dốc hơn nhưng men theo lưng chừng của vách núi đất, phía dưới là hủm sâu nên những trận gió mạnh thổi ngược dốc núi khiến rừng già xào xạc, rung chuyển. Từ đây, đường đi khó khăn hơn khi lối mòn có lúc bị phủ lấp bởi cây dại, có những đoạn phải luồn dưới cây rừng, băng qua những chặng dây leo.
Đáng lo lắng hơn là hơi thở, mùi mồ hôi và sự vận động của chúng tôi đã "đánh thức" lũ vắt rừng dưới lớp thực bỉ ẩm ướt, trên tán cây hai bên đường, trên đỉnh đầu. Sự vất vả của chúng tôi được "đền đáp" bằng những loài hoa rất lạ và màu sắc bắt mắt, chim hót, suối reo, mây mù bảng lảng...
Nếu tính theo đường chim bay, đỉnh Pú Huốt cách Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ khoảng hơn 2km, nhưng đi bộ phải leo núi chừng 5 km theo lối mòn vòng cung xoắn ốc. Cũng vì đường vòng cung, quanh co men theo lưng chừng núi nên suốt hành trình di chuyển, có lúc đỉnh Pú Huốt uy nghiêm, sừng sững trước mắt, lúc lại ẩn hiện sau lưng, khuất xa sau tán cây rừng.
Sau hơn 3 giờ đồng hồ đi bộ, leo núi, chúng tôi cũng đặt chân lên đỉnh Pú Huốt. Nếu xét về độ cao, Pú Huốt không phải là đỉnh cao nhất trong các đỉnh núi của dãy Pú Đồn. Trong 3 đỉnh núi nằm liền kề nhau, nối với nhau bằng những vùng "yên ngựa" và các "sống khủng long" kỳ vĩ kéo dài cả km thì đỉnh cao nhất là đỉnh Pú Tó Cọ, xếp thứ hai là đỉnh núi thuộc địa phận xã Pú Nhi (huyện Điện Biên Đông), đỉnh Pú Huốt với độ cao hơn 1.700m so với mực nước biển xếp thứ 3.
Dãy núi "sống khủng long" nối đỉnh Pú Huốt với đỉnh núi thuộc địa phận xã Pú Nhi là kỳ vĩ và hiểm trở nhất: Lối đi nhỏ, dốc, mạn phía Nam là vực sâu thăm thẳm.
Từ đỉnh Pú Tó Cọ, đỉnh núi thuộc địa phận xã Pú Nhi và đỉnh Pú Huốt có thể phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh thung lũng Mường Phăng (huyện Điện Biên), địa phận xã Pú Nhi (huyện Điện Biên Đông) và cả hồ thủy lợi Nậm Ngám dung tích hữu ích 5,4 triệu m3 nước "treo" mình trên cao trình hơn 1.130m so với mực nước biển, cách đó hàng chục km. Vào những hôm nắng ráo, trời quang mây, từ các đỉnh núi này có thể nhìn về thung lũng Mường Thanh, thấy được những đám khói đốt đồng cách đó hơn 10km ở cánh đồng Mường Thanh.
Những ngày thời tiết lạnh, đứng ở các đỉnh núi này sẽ bắt gặp những biển mây bồng bềnh trôi dưới thung lũng Mường Phăng, dưới vực sâu phía Pú Nhi.
Tại đỉnh núi Pú Huốt, những vết tích của Trạm quan sát trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã bị phủ lấp bởi cây cỏ, lau sậy và bạt ngàn hoa xuyến chi, hoa dại khác bung nở khắp đỉnh núi và mạn sườn.
Đổi thay dưới chân núi Pú Đồn
Mường Phăng (phiên âm tiếng Thái "Mương Phăng" có nghĩa là nghe ngóng) là thung lũng mà người Thái đã phát hiện trên hành trình thiên di và định cư, lập bản cách đây hàng trăm năm. Chính yếu tố ruộng đồng phì nhiêu, trù phú chạy dọc thung lũng được bồi đắp phù sa, tắm mát bằng các dòng suối Huổi Luông, Pá Hốc Khiều đã giữ chân những hộ gia đình người Thái đầu tiên khi đặt chân đến đây.
Toàn bộ lòng chảo Mường Phăng nhìn từ đỉnh núi Pú Huốt. Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Mường Phăng được chọn để xây dựng Sở Chỉ huy chiến dịch nằm trong khu rừng già dưới chân dãy núi Pú Đồn. Tại đây, cơ quan đầu não của quân đội ta đã "đóng chốt" 105 ngày (từ ngày 31/1/1954 đến 15/5/1954), đây là địa điểm thứ 3 và là địa điểm cuối cùng cho đến khi chiến dịch kết thúc, chiến thắng. Chính tại nơi này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra những quyết sách, đường lối quyết định để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu".
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, từ những bản làng Che Căn, Phăng, Đông Mệt... của riêng cộng đồng dân tộc Thái sinh sống, đến nay Mường Phăng đã có 26 thôn, bản, hơn 1.100 hộ dân với gần 5.300 khẩu thuộc 3 dân tộc Kinh, Thái, Mông. Là 1 trong 13 xã vùng ngoài của lòng chảo Mường Thanh, cách trung tâm huyện Điện Biên khoảng 40km, Mường Phăng hôm nay đã có sự khởi sắc: Toàn xã trồng được hơn 520 ha lúa 2 vụ, nâng tổng sản lượng lương thực đạt hơn 2.800 tấn/năm, bình quân đầu người đạt hơn 5,5 tạ/người/năm. Xã còn trồng được gần 200ha cây lấy bột (ngô, sắn, rong giềng), gần 30 ha rau màu, 35 ha cây ăn quả, hơn 63 ha diện tích nuôi trồng hải sản...
Tại Mường Phăng, nhiều mô hình kinh tế như mô hình nuôi cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm; trồng các loại cây ăn quả như hồng, mắc coọc, mận... đã phát huy hiệu quả. Cùng với đó, tận dụng lợi thế là "thủ phủ" tiềm năng du lịch, nhiều hộ gia đình trong xã đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh doanh dịch vụ, mở nhà hàng với các món ăn truyền thống đáp ứng nhu cầu tham quan, ẩm thực của du khách thập phương.
Điều đáng ghi nhận, những năm qua, chính quyền địa phương luôn nỗ lực bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc, xây dựng và phát triển các giá trị mới về văn hóa, kết hợp hài hòa giữa truyền thống với hiện đại, mang nét đặc trưng văn hóa cộng đồng để tạo nên những không gian văn hóa nhằm "hút" khách du lịch. Bản Che Căn là một minh chứng sống động trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa ngành Thái đen của chính quyền địa phương. Trong bản vẫn lưu giữ, bảo tồn nhiều giá trị văn hóa Thái cổ độc đáo, giữ được kiến trúc nhà sàn truyền thống, trang phục, tín ngưỡng, lễ hội, nghề dệt thổ cẩm, đan lát, rèn, mộc, làm nhạc cụ truyền thống... của người Thái đen.
Đỉnh núi Pú Huốt nhìn từ trung tâm xã Mường Phăng. Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN
Sau 8 năm triển khai, Mường Phăng đạt chuẩn nông thôn mới năm 2018; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 3,5 triệu đồng/người/năm (năm 2011) lên hơn 30 triệu đồng/người/năm (năm 2018). Tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm từ 42,35% (năm 2011) còn 10,51% (năm 2018); hộ gia đình có nhà ở đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định đạt 99,1%; tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có việc làm đạt 92%; 100% người dân tham gia bảo hiểm y tế trên địa bàn xã; 80,77% thôn, bản đạt danh hiệu thôn, bản văn hóa...
Chương trình nông thôn mới đã làm kinh tế - xã hội của xã có sự phát triển vượt bậc, nhất là kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư mạnh, tạo nên diện mạo mới cho nông thôn. Đó là những tiền đề quan trọng để Mường Phăng ngày càng phát triển hơn nữa, xứng đáng là vùng căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Hải An - Tuấn Anh
Theo baotintuc.vn
Chi hàng trăm tỉ để bảo vệ, rừng vẫn "chảy máu" Nhiều chủ rừng, chính quyền địa phương hằng năm vẫn nhận kinh phí bảo vệ rừng nhưng lại liên tục để xảy ra nạn phá rừng Trong thời gian qua, các tỉnh Tây Nguyên liên tục phát hiện nhiều vụ việc phá rừng quy mô lớn. Điều đáng nói, mỗi năm các chủ rừng, UBND xã để mất rừng lại nhận tiền dịch...