Mùa đặt trúm bắt lươn đồng tươi rói
Trước kia, ống trúm bắt lươn đồng được làm bằng thân cây tre gai. Những năm gần đây, qua các phương tiện truyền thông đại chúng, tôi thấy nông dân miền Tây làm ống trúm bẫy lươn đồng bằng ống nhựa.
Ống trúm là dụng cụ dùng để đặt xuống nước nhử bắt lươn, gọi là đặt trúm. Thời niên thiếu, vào mùa mưa, ngoài việc giăng lưới, cắm câu, anh em tôi còn tranh thủ làm thêm nghề “tay trái” là đặt trúm bắt lươn để đổi “khẩu vị” hoặc để bán. Trúm có thể đặt quanh năm, nhưng vào mùa mưa đặt “trúng” hơn (lươn vô nhiều).
Bắt cá đồng mùa lũ (ảnh minh hoạ)
Trước kia, ống trúm được làm bằng thân cây tre gai. Những năm gần đây, qua các phương tiện truyền thông đại chúng, tôi thấy nông dân miền Tây làm ống trúm bằng ống nhựa.
Hồi đó, khi gần cuối mùa nắng, anh em tôi lại nhắc ba đi mua tre và trúc về làm vài chục cái ống trúm thủ sẵn trong nhà, chờ khi trời đổ mưa là vác đi đặt. Khi đi mua tre, ba lựa những cây tre gai lớn và già cỗi.
Về nhà, ba cắt thành từng đoạn, mỗi đoạn dài khoảng một thước rưỡi, theo chiều từ phía gốc lên ngọn. Phần phía gốc là miệng trúm để trống, phần cuối ống trúm (phía ngọn) chừa cái mắt tre. Rồi ba lấy xà beng thụt cho thông các mắt tre ở giữa để cho ống trúm hoàn toàn rỗng ruột.
Phần miệng ống trúm, ba vùi một lỗ tròn để xỏ cây ghim- được vót bằng gốc tre già cứng, lớn chừng bằng ngón tay trỏ và dài khoảng bốn, năm tấc. Một đầu cây ghim được vót nhọn, xỏ qua lỗ ở miệng ống trúm để vừa giữ cái hom bên trong, đồng thời để ghim xuống bùn đất mà cố định miệng trúm khi đặt.
Phần cuối ống trúm, phía bên trong cái mắt tre, ba xẻ một rãnh nhỏ để làm chỗ cho lươn thở khi vào trúm, không bị chết ngạt. Sau đó ba lấy trúc chẻ, vót đan cái hom.
Phần miệng hom vừa khít bên trong miệng trúm, đuôi hom vót nhọn và túm lại. Lươn chui vào trúm thì lách qua đuôi hom dễ dàng. Nhưng vào rồi thì không thể nào chui ngược trở lại để thoát ra.
Dòng rạch chảy qua địa phận quê tôi chia làm hai khu vực rõ rệt. Bên trái (tính từ phía thượng nguồn xuống) là một đồng bưng, rộng mênh mông. Còn bên phải là vùng đất gò dân cư sinh sống.
Video đang HOT
Có chỗ nhà dân cất gần bờ rạch, cũng có chỗ có những cánh đồng nhỏ đi khá sâu vào hai bên vùng gò, mà bà con quê tôi gọi là hố.
Vùng tiếp giáp giữa dòng rạch và các đám ruộng hố là những cái láng, nhiều sình lầy và trấp, cỏ ma mọc đầy. Xưa kia dưới rạch và khắp đồng ruộng quê tôi không chỉ có nhiều loại cá, mà còn có nhiều lươn.
Vào mùa mưa, nước từ trên đồng (phía bên phải dòng rạch, nơi dân cư sinh sống) tuôn xuống các hố và láng, kéo theo nhiều thức ăn khoái khẩu của loài lươn, nên chúng tập trung về các láng này tìm mồi. Vì vậy, ngoài giăng lưới, cắm câu, anh em tôi tranh thủ đi đặt trúm lươn.
Thường vào khoảng xế chiều, anh em tôi rủ nhau đứa vác cuốc, đứa xách gáo dừa đi đào mồi. Mồi đặt trúm cũng là trùn (giun đất). Nhưng so với trùn đi cắm câu, mồi trùn đặt trúm dễ đào hơn nhiều. Đào trùn đi cắm câu, anh em tôi chỉ lựa trùn sành, loại vừa với lưỡi câu và vừa chừng miệng cá ăn.
Còn đào trùn đặt trúm thì trùn sành, trùn chuối (cũng giống như trùn sành, nhưng sống trong vườn chuối, nó mập mạp, lớn hơn trùn sành), trùn hổ (còn lớn hơn trùn chuối), trùn máu (trùn nhỏ thân đỏ mềm dễ đứt đoạn, nhiều nhớt hơn trùn sành)…
Đào trùn xong, đem về nhà chúng tôi trộn thêm đất đen vào và quết cho nó nhừ nát, nhão như bùn làm mồi đặt lươn. Chiều xuống, anh em tôi chia ra mỗi đứa vác một mớ ống trúm, rồi tìm đến các láng cỏ ma nằm tiếp giáp với ruộng hố, hoặc các láng ven rạch tiếp giáp khu dân cư đặt trúm.
Khi thấy chỗ “phải thế” (đoán biết là có lươn), chúng tôi hạ mớ ống trúm trên vai xuống, lấy một ống, bỏ nhúm mồi vào bên trong ống trúm, quệt thêm mồi vào phía ngoài cái hom.
Khi đặt trúm thì cắm cây ghim xuống bùn đất cho miệng trúm chìm sâu trong nước. Phần đuôi trúm, chỗ có rãnh thông hơi để cao khỏi mặt nước, để lươn vào trúm không bị chết ngộp. Đặt xong mớ ống, trời cũng nhá nhem tối, anh em vội đi về nhà. Tờ mờ sáng hôm sau, chúng tôi lại lúp xúp chạy ra đồng “cuốn” (lấy về) ống vác về.
Đi cuốn ống trúm không cần mang theo đụt đựng lươn, mà cứ để lươn trong ống đem về nhà. Về nhà cũng không cần phải mở hom từng ống trúm ra xem cũng biết cái nào có lươn, cái nào không. Cái có lươn vô tất nhiên là nặng hơn cái không có và khi chổng lên, chổng xuống, lươn trong ống trúm tuột lên tuột xuống kêu cụp cụp.
Hồi đó hầu hết các ống trúm anh em tôi đặt đều có lươn chui vào. Khi biết trong ống có lươn, chúng tôi rút ghim, mở cái hom lấy ra ngoài, trút ống xuống cho lươn rơi vào cái thau. Có ống thì một, hoặc hai con, có ống đến ba bốn con.
Cũng có ống gặp chỗ nhiều lươn, chúng chui vô đầy ống, làm chìm lỗ thông hơi mà chết sạch. Nhiệm vụ của chị Hai tôi là lựa lươn lớn còn sống đem rọng để dành bán, còn lươn chết thì “vuột nhớt” làm thịt kho khô sả ớt cho bữa cơm gia đình.
Trời cực nắng nóng có một loại củ ăn mát cả người nhưng mang cái tên nghe "ngồ ngộ"
Người nông dân nói, tên là "lùn" nhưng củ chẳng "lùn", ăn vào mát cả người và còn rất ngon ngọt.
Có lẽ là do "sống chung với lũ" lâu ngày mà ở Sài Gòn quanh năm, mỗi tháng mỗi ngày đều chưa bao giờ ít những món ăn mát người tỉ như chè các ...
Người nông dân nói, tên là "lùn" nhưng củ chẳng "lùn", ăn vào mát cả người và còn rất ngon ngọt.
Có lẽ là do "sống chung với lũ" lâu ngày mà ở Sài Gòn quanh năm, mỗi tháng mỗi ngày đều chưa bao giờ ít những món ăn mát người tỉ như chè các loại, hoa quả dầm, hoặc không thì là các loại sinh tố. Song bên cạnh đó vẫn có những thức dân dã hơn một chút, ví như củ... lùn.
Loại củ có cái tên ngộ nghĩnh là... "lùn".
Củ này họ khoai, còn gọi khoai lùn. Dù gọi củ hay gọi khoai thì cũng không thoát được chữ "lùn". Nghe có vẻ ngồ ngộ nhưng đó là tên cúng cơm của nó đấy. Không ai biết vì sao lại gọi là củ lùn, có lẽ là so với khoai bình thường thì "em" này thấp bé nhẹ cân hơn hẳn. Củ lùn thật ra còn có một cái tên khác là "năng tàu", đôi khi người miền Tây cũng hay gọi tắt là củ năng, song lại trùng tên với một củ khác cũng... tên "năng". Năng tàu hai chữ trong khi lùn có mỗi một chữ, lại còn nghe thương thương, thế là người miền Tây ai nấy cũng gọi là củ lùn.
Củ lùn có nguồn gốc miền Tây, cả năm chỉ có một vụ duy nhất, thu hoạch vào tầm tháng 11, 12 âm lịch (khoảng tháng 1, 2 dương lịch đấy) và ăn dần cho đến hết một, hai tháng sau. Hầu hết nguồn củ lùn ở Sài Gòn đều đến từ các tỉnh miền Tây, một số vựa lùn lớn nhất bao gồm Châu Thành (Long An) và TP. Sóc Trăng. Cứ tầm này mỗi năm là những củ khoai lùn bé xinh cứ thế mà "tịch tang" đi theo cùng những chuyến xe của người nông dân lên Sài Gòn.
Củ lùn được thu hoạch vào độ tháng 11 - 12 âm lịch.
Củ lùn ăn rất dễ, thường được luộc hoặc hấp lên. Củ lùn không như khoai, chẳng sợ bị mềm như các "ông anh" họ khoai to con khác, phải luộc lâu mới hết sượng (cứng). Một cách rất dễ để biết củ lùn có chín chưa ấy là khi chín, vỏ của củ lùn sẽ tự tróc, tự nứt ra. Nếu luộc khéo, chỉ cần khều nhẹ là vỏ tách ra dễ dàng, để lộ lớp thịt bóng loáng, nhẵn mịn (đôi khi có một vài lỗ rễ nhưng ít lắm).
Củ lùn có mùi thơm, bùi, vị ngọt. Cái vị ngọt chẳng lẫn vào đâu được của các loại trái quả nhiều tinh bột. Song không giống khoai lang, khoai tây, củ lùn bớt ngán hơn nhiều nhờ kết cấu thịt giòn, sần sật chứ không bở, ai buồn miệng có thế ăn nhoáng một phát hết cả rổ mà không hay.
Củ lùn miền Tây có vị ngọt bùi, không bở mà giòn sần sật.
Củ lùn có thể được bào chế thành bột để pha nước uống như bột sắn vậy, nhưng làm thế thì mất đi cái thú vui khi nhai sần sật thịt lùn mà giá trị kinh tế lẫn dinh dưỡng thì vẫn y như nhau. Vậy nên người ta toàn luộc lùn cho đơn giản. Nói đơn giản vậy chứ luộc lùn cũng lắm "chông gai", người nào kỹ tính, muốn lùn ngon và cầu kì hơn chút có thể cho thêm lá dứa, ít muối, để nước nhiều rồi luộc tầm 30 phút tuỳ theo số lượng. Nếu luộc khéo thì lùn sẽ có mùi thơm nức của lá dứa, hoà trộn với mùi tự nghiên nghe mà ứa nước dãi. Đây là món mà đứa trẻ miền Tây nào cũng rất quen thuộc.
Củ lùn rất hợp để ăn mùa nóng, bởi vì trông bé nhỏ thế thôi nhưng lùn ngậm nước cực giỏi, luộc lên để nguội, cắn vào một phát thì nước tứa ra, mang theo vị ngọt bùi khó tả, ăn cũng như uống, giúp chống mất nước cho hội lười uống nước hiệu quả. Củ lùn cũng được xem là vị thuốc giải nhiệt, trị độc gan, lợi tiểu... Người thành phố, những nhà không có sân vườn thì phải đợi mua, đợi thương lái mang lên. Còn ở quê, nhà nào có lùn sai củ là lũ trẻ con cứ đến hẹn lại lên, tới mùa là rủ nhau ra đào trong vườn.
Củ lùn có cái tên "trông mặt mà bắt hình dong" lắm, bởi vì dù "lùn" nhưng có giá cao hơn nhiều các loại khoai, củ khác bởi vì quanh năm chỉ có một mùa duy nhất.
Củ lùn chẳng "lùn" tí nào, vừa hiếm vừa có giá cao hơn các loại củ khác.
Đối với nhiều người nông dân miền Tây, củ lùn chẳng "lùn" tí nào. Có nhiều người nhờ mùa củ lùn mà "phát tài", dù bán với giá không quá đắt, tầm khoảng 35 - 40k/kg song vẫn có thể lời đến 80 triệu hơn chỉ cho 4 công đất (đơn vị đo lường miền Tây, mỗi công 1000 mét vuông).
Đối với nhiều vùng lạnh hơn, củ lùn luộc ăn vào mùa đông là thức ấm nóng, ngon lành ngày lạnh. Tuy nhiên đối với Sài Gòn chỉ có hai mùa nóng và "nóng hơn" thì củ lùn đã trở thành món ngon giải nhiệt tốt. Năm nay mùa củ lùn dường như muộn hơn một chút, nhưng vẫn tới, không biết bạn đã ăn hay chưa? Thời buổi hiện đại, bạn không phải "hên xui" ra chợ tìm kiếm nữa, mà có thể đặt mua củ lùn giao tận nhà, dù có hơi đắt hơn một chút.
Hơn 1 ngày kêu gọi, Thủy Tiên quyên góp được hơn 3,4 tỷ đồng ủng hộ người dân miền Tây Với số tiền hơn 3,4 tỷ đồng kêu gọi được, Thủy Tiên tiết lộ sẽ lắp đặt máy lọc nước và giúp đỡ được 8 xã ở Tiền Giang. Trong những ngày qua, bên cạnh những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, vấn đề hạn hán và ngập mặn của nông dân miền Tây cũng được dư luận dành một sự quan...