Một số bệnh thường gặp sau khi “vượt cạn”
Vì vậy, bên cạnh công việc chăm sóc cho con trẻ, các bà mẹ hãy lưu ý một số căn bệnh thông thường sau đây, có cách phòng và điều trị đúng để không bị ảnh hưởng đến sức khoẻ cả mẹ và con.
Bệnh “nứt cổ gà”
Bệnh “nứt cổ gà” thường gặp ở những bà mẹ đang cho con bú. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh này là vì cho con bú không đúng cách. Thay vì cho bé ngậm hết quầng vú thì mẹ chỉ cho con mớm hời hợt vào núm vú. Vì thế, mỗi lần bé bú, núm vú bị kéo, giật mạnh, lâu ngày gây ra hiện tượng “nứt cổ gà”.
Biểu hiện ban đầu của bệnh là xuất hiện một hoặc hai vết nứt nhỏ, sau đó tấy đỏ, đau nhức, thậm chí nhiễm trùng, mưng mủ. Nếu không chữa trị kịp thời, vết nứt sẽ lan dài quanh chân núm vú, gây đau đớn cho mẹ và mất vệ sinh cho trẻ.
Phòng tránh bệnh này bằng cách cho trẻ bú đúng cách. Hãy kéo bé về phía ngực mình, kích thích bằng cách dùng đầu vú cù vào môi dưới của trẻ để trẻ há miệng to như đang ngáp, lúc này mẹ phải kéo nhanh bé về phía bầu vú. Miệng của bé mở rộng sẽ ngậm hết toàn bộ phần quầng vú và đầu vú.
Các sản phụ cũng nên chăm sóc vú bằng các sản phẩm chuyên dụng như: mỡ cừu tinh chế, dầu hướng dương, kem dưỡng núm vú để tránh bị “nứt cổ gà”. Bên cạnh đó, phải vệ sinh đầu vú thường xuyên bằng cách lau vú bằng nước ấm sau khi cho con bú và tránh để da bị khô nẻ. Không bôi xà phòng hoặc dùng dung dịch triệt khuẩn trên vùng vú, vì sẽ dẫn đến hiện tượng da khô và nứt núm vú. Hạn chế mặc áo lót để làm giảm sự phát triển của vi khuẩn.
Việc chữa trị bệnh “nứt cổ gà” cũng khá đơn giản. Trước tiên, cần rửa sạch chỗ đau bằng nước ấm pha muối. Sau đó, lau khô và bôi thuốc tetracyclin, bepanthen, lanolin, fuciort… Các bài thuốc dân gian cũng khá hiệu nghiệm trong việc điều trị bệnh này như bài thuốc rượu hạt gấc. Hãy lấy hạt gấc sao vàng, hạ thổ, tán mịn, ngâm rượu trắng rồi bôi lên chỗ bị đau sẽ có tác dụng sát khuẩn. Hoặc giã nát mồng tơi và một ít muối hạt rồi đắp lên vết thương hoặc dùng lá rau ngót giã nát, vắt lấy nước cốt rồi đắp lên chỗ nứt…
Ngoài ra, có thể lau sạch vùng bị đau, chờ đến khô rồi nặn một chút sữa và xoa lên đầu vú rồi để khô, đến tối lại rửa sạch và lại làm như vậy, thực hiện việc này cho đến khi khỏi hẳn. Để tiếp tục duy trì nguồn sữa cho trẻ trong khi điều trị, hãy vắt sữa thường xuyên vào đúng các cữ bú của trẻ. Chỉ đến khi vết thương đã kín miệng và lên da non mới nên cho trẻ bú lại.
Viêm nhũ
Video đang HOT
Viêm nhũ là quá trình bế tắc, ứ đọng sữa và tạo mủ cấp tính. Bệnh thường phát sinh vào thời kỳ cho con bú với những triệu chứng bầu vú sưng nóng, sốt, đau mình. Nguyên nhân chính của bệnh này cũng là do trẻ bú mẹ không đúng cách làm trầy da vùng xung quanh núm vú và dẫn đến viêm tuyến sữa.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như không day đều bầu sữa để thông tia sữa ngay sau sinh không vệ sinh đầu vú và vắt bỏ sữa thừa khi trẻ không bú hết (sữa đọng gây ôi, tắc và ung nhũ) tinh thần không thư thái làm can khí uất, ảnh hưởng đến chức năng vận hoá của tỳ, sữa ứ đọng hoá hoả sinh nhũ cung…
Để chữa trị thì cách đơn giản nhất là ngưng cho con bú ở bên viêm, nặn bớt sữa. Sau đó uống kháng sinh (sau khi đã đi khám bác sĩ), bệnh sẽ khỏi sau vài ngày. Nhưng nếu chỗ viêm da đã thành áp- xe thì nên đi khám. Bác sĩ sẽ rạch vùng áp-xe đủ rộng để lấy hết mủ và để một ống nhựa dẫn mủ chảy ra cho sạch hẳn.
Nguyên nhân của việc xuất hiện cơn tetani là do trong quá trình mang thai và cho con bú, một lượng lớn canxi được lấy từ người mẹ sang thai nhi để phát triển hệ thống xương của thai nhi. Quá trình này làm cho nồng độ canxi máu của người mẹ giảm, đặc biệt ở những người mẹ có chế độ ăn không đầy đủ canxi theo nhu cầu (1.500mg/ ngày) hay những người bị bệnh đường tiêu hoá mãn tính.
Những người nghén nhiều hay nôn làm mất nước, điện giải và tình trạng kiềm hoá kèm theo tình trạng lo lắng, tạo điều kiện cho cơn tetani xuất hiện. Dấu hiệu báo trước của tình trạng này là sự kích thích quá mức của hệ thống thần kinh – cơ hoặc đi kèm là hiện tượng bị cảm, nặng nề ở tay, chân, vùng quanh miệng. Tiếp theo là hiện tượng co cơ đột ngột, nhất là ở bàn tay và ngón tay (giống hình ảnh bàn tay người đỡ đẻ).
Ngoài ra, cũng có thể biểu hiện ở các vị trí khác như ở chân hay ở mặt. Một số trường hợp có kèm với co thắt cơ trơn gây nên tình trạng khó thở do co thắt khí quản hay đau bụng do co thắt cơ trơn ở ruột… Tình trạng này kéo dài từ vài phút đến vài giờ. Có thể có tình trạng lo lắng, hoảng hốt, mạch nhanh…
Khi đi khám, bác sĩ có thể phát hiện được tình trạng co cơ vùng má khi gõ bằng búa phản xạ vùng trước lỗ tai (dấu hiệu Chvostek) hay cơn tetani tái xuất hiện khi yêu cầu bệnh nhân thở nhanh (gây tình trạng kiềm hoá máu do tăng thông khí). Xét nghiệm máu trong cơn sẽ thấy canxi máu giảm nhưng đôi khi có những trường hợp canxi máu không giảm.
Để phòng tránh và điều trị chứng bệnh này thì lời khuyên trước tiên là nên bổ sung canxi (1.000 – 1.500mg/ ngày) và vitamin D. Có thể bổ sung bằng các thức ăn giàu canxi (cua, cá, thịt…) và phơi nắng để tăng tổng hợp vitamin D từ da. Các triệu chứng của cơn tétani sẽ hết đi nhanh nếu được tiêm tĩnh mạch dung dịch canxi (thường dùng 500 – 1.000mg dung dịch canxi clorua).
Một điều lưu ý các bà mẹ là không nên tự ý sử dụng thuốc điều trị các chứng bệnh xương khớp trong thời kỳ thai nghén và cho con bú. Khi dùng thuốc phải có sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa, để tránh những hậu quả không mong muốn cho cả mẹ và con.
Theo SKDS
Khó thở là bệnh gì?
Khó thở là một trong những bệnh thường gặp. Một số trường hợp khó thở cần cấp cứu, nếu không sẽ nguy hiểm cho tính mạng người bệnh.
Nói đến khó thở là mọi người nghĩ ngay đến bệnh của đường hô hấp, nhưng không ít trường hợp bệnh cảnh lại xảy ra ở một cơ quan khác trong cơ thể.
Một số nguyên nhân
Bệnh đường hô hấp gây khó thở gặp nhiều nhất là hen phế quản (viêm phế quản thể hen, hen suyễn).
Hen suyễn là một bệnh có thể cấp tính hoặc mạn tính, gặp ở mọi lứa tuổi. Hen suyễn thường thuộc bệnh dị ứng và kèm theo viêm phế quản. Khó thở trong hen suyễn thường khó thở ra. Khi lên cơn khó thở có kèm theo tiếng rít (do co thắt phế quản) và xuất tiết đường hô hấp gây ho, có đờm. Bệnh xảy ra quanh năm nhưng mỗi khi thời tiết thay đổi hoặc gặp yếu tố thuận lợi (dị ứng nguyên) thì cơn hen xuất hiện. Hen suyễn cũng dễ nhầm lẫn với đợt cấp của bệnh viêm phổi tắc nghẽn mạn tính, bởi vì bệnh này khi lên cơn cấp tính cũng gây khó thở, khò khè, ho. Ho có đàm đặc, màu vàng, xanh, ho thường trên 3 tháng/năm.
Bệnh viêm phổi tắc nghẽn mạn tính lúc đầu chỉ khó thở nhẹ nhưng càng ngày càng nặng, môi tím, mệt mỏi. Bệnh thường gặp ở người cao tuổi và có tiền sử nghiện thuốc lá, thuốc lào.
Trong bệnh giãn phế quản cũng làm cho người bệnh khó thở, đặc biệt là khó thở do tràn khí màng phổi do bệnh giãn phế quản. Khó thở khi hít vào và thường xảy ra sau một cơn đau ngực dữ dội, mặt xanh, trán vã nhiều mồ hôi.
Bệnh viêm phế quản - phổi cũng gây khó thở, xảy ra một cách từ từ, kèm theo thường là sốt cao. Bệnh hay gặp ở trẻ em (nhất là trẻ còi xương suy dinh dưỡng), người có tuổi và người suy giảm miễn dịch (người mắc bệnh AIDS).
Khó thở cũng gặp ở những người bệnh khí phế thũng, tâm phế mạn. Trong các bệnh này người bệnh khó thở gần như thường xuyên, môi tím (do thiếu dưỡng khí), mệt mỏi...
Dị vật đường thở là một bệnh gây khó thở vào điển hình do không khí khó hoặc rất khó vào phổi vì tắc nghẽn do dị vật. Khó thở do dị vật có thể gặp trong bệnh bạch hầu thanh quản (đây là bệnh bạch hầu ác tính do vi khuẩn Corynebacterium diphterie gây ra). Trong bệnh này do giả mạc phủ kín, đầy niêm mạc thanh quản và khí quản kèm theo phù nề gây khó thở cấp tính phải cấp cứu ngay.
Bệnh lao phổi mạn tính cũng gây khó thở nhất là bệnh lao hang, lao kê hoặc tràn dịch màng phổi do lao (tràn dịch màng phổi có nhiều nguyên nhân đều gây khó thở, trong đó có tràn dịch do lao).
Một số bệnh của phổi như ung thư phổi hoặc áp xe phổi cũng gây khó thở, đôi khi gây khó thở dữ dội.
Khó thở cũng có thể gặp ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng do dịch trong ổ bụng nhiều ngăn cản di động của cơ hoành hoặc bệnh suy tim giai đoạn cuối cũng làm cho gan ứ máu, to ra đẩy cơ hoành lên làm cản trở di động của cơ hoành gây khó thở.
Khó thở cũng gặp ở bệnh nhân phù phổi cấp do bệnh của tim như hẹp, hở van tim, van động mạch chủ, tăng huyết áp tim trái...
Ngoài ra người ta thống kê cho thấy một số bệnh như đau dây thần kinh liên sườn, chấn thương lồng ngực, bệnh đường hô hấp trên như viêm amidan, viêm thanh quản hoặc bệnh rối loạn cảm xúc (trầm cảm, lo lắng...) hoặc do urê máu cao, toan máu cũng có khả năng gây khó thở.
Khi khó thở nên làm gì?
Khó thở có thể là cấp tính, có thể là mạn tính. Trong các trường hợp cấp tính như dị vật đường thở, hen suyễn cấp tính, đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, tràn khí màng phổi... cần nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để cấp cứu, nếu chần chừ có thể gây nguy hiểm cho tính mạng người bệnh. Nếu khó thở nhẹ, xảy ra từ từ thì cần đưa người bệnh đến khám ở các cơ sở y tế càng sớm càng tốt, đặc biệt là các cơ sở y tế chuyên khoa (chuyên khoa tim mạch, hô hấp, tai mũi họng...). Sau khi khám bệnh, người bệnh nên thực hiện theo đơn thuốc của bác sĩ và các tư vấn kèm theo. Không nên tự mua thuốc để điều trị, bất luận là thuốc Tây y hay thuốc Đông y hoặc thuốc Nam bởi vì làm như vậy không những bệnh không khỏi mà đôi khi còn làm bệnh nặng thêm, hoặc nguy hiểm thêm, chưa nói đến tốn kém về mặt kinh tế. Cần đi khám bệnh định kỳ theo lời dặn của bác sĩ để được kiểm soát và khống chế bệnh tốt hơn.
Theo SKDS
Cùng con đối mặt với viêm phế quản Bệnh này khi đã trở thành mãn tính thì rất khó chữa trị và sẽ đi theo trẻ suốt cuộc đời. Bệnh viêm phế quản là bệnh thường gặp và khó đối phó ở trẻ em. Trẻ rất nhạy cảm với thời tiết lạnh. Vì vậy, không được mặc ấm, đi ra gió sẽ khiến trẻ phải đối mặt với nguy cơ bị...