Một gia đình 32 năm sống kiếp “người rừng”
Mấy chục năm nay, gia đình sáu người trong đó có bốn trẻ em sống giữa rừng, tách biệt với thế giới bên ngoài chỉ vì nghèo khổ và bế tắc.
Từ thông tin của anh Lê Văn Tự, Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng số 2, Ban Quản lý rừng phòng hộ Tuy Phong (Bình Thuận), PV báo Pháp Luật TP.HCM đã tìm đến một gia đình sống tách biệt giữa rừng sâu mấy chục năm nay.
Túp lều giữa đại ngàn
“Căn nhà” của A Sáng nằm lọt thỏm giữa rừng già huyện Bắc Bình, giáp ranh với tiểu khu 22 rừng phòng hộ Tuy Phong, ở độ cao gần 800 m so với mặt biển, muốn đến được phải mất một ngày luồn rừng. Từ cửa rừng ở xã Phan Dũng (huyện Tuy Phong), đến đây phải leo qua năm ngọn núi, luồn lách qua những khu rừng già với vách đá đầy rêu.
Túp lều được dựng bằng thân tre, trên phủ bạt. Bốn đứa trẻ nép vào tấm cửa đan bằng phên tre nhìn khách lạ lẫm. Tất cả chúng đều nhỏ con và hơi khờ khạo. Anh Nguyễn Đẩu, người dân xã Phong Phú (huyện Tuy Phong) dẫn đường cho chúng tôi nói rằng chỉ mới đây thôi, mỗi lần có người lạ là chúng lại chạy vào rừng để trốn.
Không giao tiếp, không học hành, tất cả những gì về thế giới bên ngoài là vài người dân đi làm dầu rái thi thoảng ghé qua xin nước uống. Hai đứa lớn mỗi tháng một lần cõng dầu rái xuống núi, tại cửa rừng nơi họ có thể bán dầu và nhận lại lương thực. Bầu bạn của chúng là một con mèo và hai con chó, trong đó một con bị cụt chân vì vướng bẫy.
Mỗi ngày A Sáng lại ra khấn thần rừng xin bình yên cho con cái. Ảnh: HOÀNG ANH
A Sáng tên thật là Gịp A Dưỡng, người thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, Bình Thuận. Anh 50 tuổi nhưng đã có 32 năm sống giữa rừng. Nhà nghèo, từ nhỏ A Sáng đã lên rừng làm dầu rái (lấy nhựa thông) về bán. Rừng xa, ban đầu mỗi tuần anh về nhà một lần, rồi nửa tháng, rồi có khi ở hẳn nhiều tháng không về, chỉ xuống bãi bán dầu rồi lại trở lên. Từ năm 1982, anh ở lại hẳn trong rừng.
Cuộc đời buồn
Rồi A Sáng thương một cô gái đi gánh dầu rái thuê trên rừng. Họ dắt díu nhau về quê nhà Hải Ninh, sống chung trong căn nhà trống trước dột sau với vợ chồng anh trai và có một đứa con là Gịp A Moi. A Sáng vẫn lên rừng, mỗi tháng về đôi lần gửi tiền bán dầu rái cho vợ đong gạo. Mấy năm sau, người vợ mắc bệnh rồi qua đời. Từ đó A Sáng ở hẳn trong rừng sâu, không có ai bầu bạn ngoài một con khỉ. thi thoảng anh mới có dịp nói chuyện khi gặp vài người đi làm dầu rái trên núi cao cách đó nửa ngày đường.
Ngày nọ, cô gái Nguyễn Thị Quảng từ xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong lên gánh dầu thuê. Họ quen nhau rồi về ở cùng nhau. A Sáng đón đứa con của người vợ đầu, lúc này chừng năm, sáu tuổi, lên núi ở cùng.
A Sáng biết chút ít nghề thuốc Nam học từ mẹ và biết đỡ đẻ vì hồi nhỏ mẹ sinh mấy đứa em, bà mụ sai anh đi mua thuốc và phụ đỡ đẻ. Khi chị Quảng mang bầu, núi cao không đưa vợ về xuôi sinh nở được, anh làm bà mụ cho vợ mình. Vợ sinh xong, anh tắm rửa cho con, hút đờm dãi trong miệng nó để lớn lên nó khỏi bị hen. Họ có đứa con thứ hai là bé gái Gịp A Nhì như thế.
Muốn tìm đến túp lều của họ, nhóm PV đã phải nhờ người dẫn đường, băng rừng trọn một ngày. Ảnh: ĐỨC HIỂN
Video đang HOT
Rồi vợ lại mang bầu, A Sáng lại đỡ đẻ. Được hơn một tuổi thì thằng bé bị sốt. Hôm đó mưa trắng rừng, không cách gì có thể đưa đứa bé đang sốt hầm hập băng qua bảy ngọn núi với những khe suối lũ đang gào thét và những vách đá dựng đứng đầy rêu để về bệnh viện. Những bài thuốc Nam không ngăn giúp đứa bé dễ thở hơn. Nó chết trên tay A Sáng.
Vợ lại mang bầu, A Sáng lại luồn rừng về mua thuốc và đỡ cho vợ. Nhưng đứa bé bị nhau thai quấn cổ và chị Quảng, vợ anh, cũng chết vì băng huyết khi sinh. Cũng như đứa con trước đó, họ chết trong một chiều mưa giăng trắng rừng già.
A Sáng dắt díu hai đứa con Gịp A Moi và Gịp A Nhì tìm một ngọn núi cao hơn, dựng lều gần nơi anh lấy dầu rái để tiện chăm con và làm dầu. Đó là một ngày mùa khô 17 năm trước.
Cái nghèo đeo đẳng
Chị Quảng có một người em gái tên Nguyễn Thị Lâm Tuyền, nghèo như chị và cũng đi gánh dầu thuê như chị. Mỗi khi lên rừng, cô lại mang theo khi cái áo, lúc ký thịt, hũ mắm cho cháu, bịch thuốc rê cho anh rể. Những người bạn đi rừng khuyên cô: “Mày cũng gần ba mươi rồi. Thôi thì mày lấy A Sáng rồi chăm hai đứa nhỏ”.
Không nói ra thì từ lâu cô cũng đã chăm hai đứa con của Sáng như người mẹ thứ hai. Đến khi A Sáng ngỏ lời: “Cô về đây ở với anh lo cho thằng A Moi và con bé A Nhì!” thì cô im lặng. Họ thành vợ chồng từ đó. Túp lều giữa rừng được thay tấm bạt mới, A Sáng xẻ một cây gỗ làm bộ ván cho hai đứa con, vách lều được nới rộng và ngăn ra. Thêm một ngày đốn tre và đục đẽo, A Sáng chỉ tay vào cái giường tre mới đóng: Anh với em ngủ chỗ này.
Rồi chị Tuyền mang bầu, dĩ nhiên vẫn không thể leo núi về trạm xá. A Sáng lại làm bà mụ trong những ngày mưa rừng gió núi. Anh ra gốc cây to nhất sau lều, lập bàn thờ và khấn thần núi thần rừng: “Xin ông bà cô cậu phù hộ cho vợ con sanh đứa bé mạnh tay mạnh chưn”. Bốn đứa con: Gịp Sám Tày, Gịp A Long, Gịp A Dậu và Gịp Linh Chi nối nhau ra đời. Túp lều đỡ cô quạnh hơn nhưng cuộc sống khó khăn hơn. Lều chật, sáu đứa con vẫn ngủ trên ván, thằng em gối đầu lên bụng thằng anh, thằng bé vắt chân lên cổ thằng lớn.
Mơ ước một căn nhà
20 tuổi, thằng con lớn Gịp A Moi một bữa nói với cha: “Ở rừng khổ quá, con muốn về làng!”. Nhưng tiền đâu mà cất nhà? Xa rừng biết sống bằng gì? Mảnh đất cha mẹ để lại, người anh trai ở phần trước, phần sau vẫn dành cho A Sáng. 30 năm nay, chưa khi nào A Sáng nguôi nỗi khao khát có một mái nhà trên đó. Nhưng làm ngày nào ăn ngày ấy còn chưa đủ, hai vợ chồng với một bầy con sáu đứa mỗi ngày ăn gần 7 kg gạo, mỗi bữa nấu bảy lon, thực phẩm chỉ có rau rừng, thú nhỏ bẫy được, vậy mà còn đói. Ước mơ về một ngôi nhà ở làng để đưa vợ con về cứ mãi xa vời.
Bữa cơm chiều của gia đình A Sáng. Ảnh: ĐỨC HIỂN
Nghĩ đến bầy con thất học, không có dịp giao tiếp với bên ngoài, cứ cặm cụi kiếm ăn trong rừng sâu núi thẳm, nhiều đêm anh muốn khóc. Anh nghĩ: Đời mình đã thế, đời chúng nó rồi cũng lại cắm mặt vào rừng làm dầu đổi gạo, khác gì muông thú?
Một buổi, thằng Gịp A Moi mang dầu rái xuống bãi và không trở lên rừng nữa. Nó nhắn một người thợ rừng là xuống Liên Hương làm thuê. Con bé Gịp A Nhì thay anh gánh dầu xuống núi rồi cũng không trở lên nữa, nó xuống ở với anh trai, cũng đi làm thuê.
Giờ, thằng bé Gịp Sám Tày, 16 tuổi và thằng Gịp A Long lên 10 lại thay anh chị nó gánh dầu xuống bãi. Hai thằng nhỏ vác can dầu mấy chục ký luồn rừng leo dốc như con khỉ, những con dốc mà chúng tôi bở hơi tai hai ba bận mới leo tới đỉnh.
Những đứa trẻ ấy chỉ muốn được về sống ở làng như bao đứa trẻ bình thường. Bố mẹ chúng cũng chỉ muốn có một cái nhà ở làng như người bình thường, đau ốm hay sinh nở được đến bệnh viện, không phải đẻ trong rừng và chết trong rừng như người vợ và hai đứa con trước. A Sáng đã thức nhiều đêm đến khi gà rừng gáy sáng vì câu hỏi của vợ con: “Khi nào mình được về làng?”.
Ở tuổi ngoài 50, chân đã mỏi sau gần 40 năm lội rừng, anh không có nhiều thời gian và cơ hội.
A Sáng hát rất hay nhưng ở rừng từ năm 18 tuổi nên đến giờ anh vẫn chỉ thuộc những bài nhạc vàng từ 40 năm trước. Say say anh vẫn nghêu ngao “nhà em có hoa vàng trước ngõ”. Còn thực tại thì vẫn là túp lều giữa rừng sâu với vợ và bốn đứa con, cách ngôi làng gần nhất trập trùng núi cao và rừng rậm. Một căn nhà, mơ ước của đời người vẫn là điều quá xa vời.
A Sáng nghèo, A Sáng khổ. Nhưng nhìn vào mắt anh, giăng võng ngủ với anh một đêm bên túp lều giữa rừng, tôi thấy ở đó còn hơn cả sự nghèo, nó là sự tối tăm, luẩn quẩn và bế tắc.
Theo Khampha
Gia đình 6 người sống giữa rừng sâu vừa được phát hiện
Nằm sâu trong lòng đại ngàn cách đường nhựa gần một ngày đi bộ, túp lều của cặp vợ chồng có 4 đứa con sống như "người rừng" ở Bình Thuận vừa được phát hiện.
Mất gần một ngày đi bộ từ trạm Bảo vệ rừng số 2, Ban quản lý rừng Tuy Phong, Bình Thuận, đoàn người phải vượt 5 ngọn núi cao thẳng đứng, lội qua hàng chục con suối với đường chằng chịt cỏ cây, gai góc mới có thể đến rừng phòng hộ Sông Mao. Khi ráng chiều vàng quạch dưới chân núi cuối cùng của chuyến hành trình, mọi người chợt nghe tiếng chó sủa và căn nhà nhỏ hiện ra giữa đám tre trúc vây quanh. Không quá hoang dã, căn nhà của anh Gịp A Dưởng có sự hiện diện của những vật dụng ở dưới xuôi nhưng vẫn ẩm thấp và tạm bợ.
Căn nhà nằm giữa đại ngàn, không có hàng xóm. Ảnh: Thiên Chương
Ngôi nhà chừng 30 m2 được dựng bằng tre nứa, mái tranh phủ bằng những tấm bạt cũ. Những thành viên trong gia đình anh Dưởng vẫn mặc quần áo chứ không đóng khố. Dưới bếp có nồi niêu chén đũa, trên vách có quyển lịch xem ngày tháng... song, sự cách biệt hơn 20 km đường rừng giữa ngôi nhà với "thế giới bên ngoài" đã khiến các con của A Dưởng hoàn toàn không được tiếp xúc với ai ngoài bố mẹ.
Nghe tiếng động, A Dưởng hé cửa bước ra, mặt thoáng ngỡ ngàng. Nhác thấy có người thợ rừng quen mặt, anh lúng búng chào. Nói tiếng Kinh thành thạo, anh Dưởng và bà xã Nguyễn Thị Lâm Tuyền mời khách vào sân, nơi có chiếc bàn nhỏ và hai băng ghế được ghép lại từ các mảnh cây rừng. Ngược lại với thái độ của bố mẹ, 4 đứa con của anh Dưởng vừa ló mặt ra khỏi cửa thấy người lạ lại vội nấp vào trong.
A Dưỡng vốn là người dân tộc Hoa, bố mẹ sống ở thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, Bình Thuận. Nhà nghèo, không biết làm gì kiếm sống nên từ năm 1982, anh quyết định vào rừng nhặt củi hứng dầu mang ra huyện bán. Nơi anh chọn tìm kế sinh nhai là khu rừng sâu cách thôn khoảng 5 giờ đi bộ, tính theo cách đi thoăn thoắt quen chân của dân chuyên đi rừng. Cũng thời điểm này, A Dưởng lấy người vợ đầu tiên là Nguyễn Thị Quảng, ở với nhau có được một con trai thì chị mất.
"Vợ chết buồn quá, tôi trở về thôn gửi tạm con cho bố mẹ nuôi rồi lại trở về rừng", A Dưởng kể. Gần một năm sau, anh quen người vợ thứ hai tên Nguyễn Thị Phương - người vào rừng sống bằng nghề gánh dầu thuê. "Tôi ở với Phương có được một con gái thì vợ chết vì sốt nặng. Thương cảnh cháu còn nhỏ mồ côi, em gái Phương ở luôn trong rừng cùng tôi nuôi cháu. Từ đó chúng tôi sống như vợ chồng và có thêm được 4 con", A Dưởng nói.
Vợ chồng A Dưởng và các con. Ảnh: Thiên Chương
Người đàn ông 50 tuổi cho biết, trong suốt 32 năm ở rừng quá xa thôn làng nên mỗi lần vợ sinh là mỗi lần anh đỡ đẻ. "Nhắm gần đến ngày sinh, tôi ra trạm xá mua một liều thuốc kích thích đẻ và một liều thuốc khỏe rồi tự tay tiêm cho vợ. Trời thương, ngoài hai đứa con chết do bệnh, mấy đứa còn lại đều sống khỏe mạnh", A Dưởng kể.
Trong 6 người con, hai đứa con của hai người vợ đầu sau thời gian ở cùng A Dưỡng và mẹ Tuyền do chịu không nổi cảnh thiếu thốn nên tự tìm xuống thôn để sinh sống. Hiện 4 con cùng sống trong rừng sâu với bố mẹ là Gịp Xám Tày, Diệp A Long, Diệp A Dậu và Diệp A Linh 2 tuổi rưỡi.
16 tuổi, có gương mặt đẹp, cơ thể phát triển như một thiếu niên nhưng Xám Tày gần như không biết giao tiếp. Thấy khách đến nhà, cậu chỉ biết bế em nấp sau cửa, cười. Dù mọi người cố nói thật chậm những câu đơn giản nhưng Tày không thể trả lời được câu nào trọn nghĩa. Còn A Long dù 11 tuổi, A Dậu 9 tuổi nhưng nhỏ nhắn như những em bé 5-7 tuổi ở phố huyện. Gần 3 giờ khách đến chơi, cả Long và Dậu vẫn không dám bước đến gần ai.
"Các con lại đây với mọi người, không ai làm gì các con đâu", thấy con quá rụt rè, người bố phải gọi nhiều lần đám trẻ mới chịu bám vào nhau nhích từng bước một về phía người lạ. A Dưởng cho biết chúng đều biết nói tiếng Kinh nhưng trước những câu hỏi của khách, hầu như bọn trẻ chỉ biết cười hoặc trả lời "có" hoặc "không".
"Giờ chúng nó như vậy là tiến bộ lắm rồi. Trước đây mỗi khi có thợ rừng ghé qua xin nước, mấy đứa nhỏ toàn la hét rồi bỏ chạy do hoảng sợ. Trừ thằng lớn biết được vài chữ do có mấy năm sau này được cho ra thôn, còn 3 đứa hoàn toàn không biết mặt chữ và cũng không biết ai ngoài bố mẹ", chị Tuyền nói.
Chú chó nhỏ là bạn thân của mấy anh em nhà Xám Tày. Ảnh: Thiên Chương
Cuộc sống của gia đình này dựa vào việc hứng nhựa thông mang về huyện bán. Nhưng khoản tiền này chỉ đủ cho A Dưởng mua mắm muối gạo thóc, mấy bộ quần áo cho con. Mỗi ngày, từ khi thức dậy đến chiều tối, niềm vui và cũng là công việc của anh em Xám Tày là vào rừng bắn chim hay xuống suối bắt cá rồi chờ tối đến lại được nghe đài. Chiếc radio chính là thứ duy nhất để những đôi chân nhỏ bé chưa đủ sức vượt rừng về xuôi, hướng đến thế giới bên ngoài.
Chiều ở rừng những ngày giữa tháng sáu trời trở lạnh vì các cơn mưa ào ào di chuyển từ triền núi này sang triền núi khác. Gió thốc liên tục trên mái nhà, giật tung đám cỏ tranh xếp lớp được chặn bởi mấy thanh tre. Gió cũng rung bần bật ngọn vải rừng trước sân và đám lồ ô sau nhà. Lùa vội đàn gà vào chuồng, lấy tấm nylon cũ đậy lại đống củi, Xám Tày líu ríu thúc các em bê nồi cơm vừa nấu chín rồi cả đám leo lên chiếc giường nhỏ bày ra ăn.
Sạc điện cho đèn pin là cả vấn đề nên chỉ trong bữa ăn anh em Xám Tày mới được phép bật điện. Đốm sáng từ chiếc đèn pin chỉ to bằng quả trứng treo lơ lửng ở cọng dây phía trên đủ rọi vào giữa mâm, nơi luôn chỉ có món cá trắng kho và canh rau rừng. Suốt bữa ăn, ngoài tiếng chép miệng, thi thoảng là tiếng đũa chạm nhau lách cách khi mấy anh em tranh nhau gắp thức ăn.
"Hơn hai chục hécta của khu rừng này không có ai ngoài gia đình tôi. Thi thoảng có vài thợ rừng hoặc mấy người chặt phá rừng ghé qua xin nước uống. Bây giờ thú dữ đã không còn nên đỡ sợ, chứ ngày xưa có khi sáng thức dậy còn thấy dấu chân cọp ở cạnh chòi, sợ lắm. Thương con, cũng muốn cho nó biết cái chữ, nhưng không có tiền để về thôn cất nhà nên đành chịu", A Dưởng nói.
Anh Lê Văn Tự, Trưởng trạm Bảo vệ rừng số 2, thuộc ban quản lý rừng Tuy Phong - một trong số ít người phát hiện ra gia đình A Dưởng cho biết, nhìn các bé, anh thấy xót xa. "Lần đầu tôi gặp, các bé đã chạy trốn, quần áo rách bươm dơ bẩn như những người rừng".
Chị Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, phụ trách mảng chính sách hộ nghèo của xã Hải Ninh thừa nhận nhiều năm làm việc nhưng không biết trường hợp này. Qua kiểm tra, Gịp A Dưởng vẫn có hộ khẩu tại địa phương. "Có lẽ khi chúng tôi đi khảo sát hộ nghèo thì anh Dưởng không có mặt nên không thể xét và cũng không biết anh đang ở đâu để tìm", chị Tuyết cho hay.
Cũng bày tỏ xót xa trường hợp nhà A Dưởng, ông Nguyễn Lê Thái Dũng, Phó chánh văn phòng UBND huyện Bắc Bình cho biết: "Mình tôi chưa thể quyết định được gì nhưng tôi hứa sẽ báo lại với cấp trên để trước mắt làm việc với địa phương và sẽ có hướng giúp đỡ cho anh Dưởng".
Theo VnExpress
'Thánh mẫu' đấm cụ 80, bóp cổ bé 2 tuổi vì đánh hồn ma? Bà bán rau bỗng nhiên xưng là "thần y", "chữa bệnh" bằng cách vừa đấm đầu bóp cổ, vừa cho những người mê tín uống loại "thuốc" từ các loại rau củ quả. Tự xưng 'thánh mẫu', chữa bệnh bằng phương pháp 'bạo lực' (ảnh minh họa) Chưa hết, người đàn bà này còn tự xưng có thể chữa bách bệnh và đoán...