Mong manh xuất khẩu
Sự mất cân đối tỷ trọng xuất khẩu giữa doanh nghiệp (DN) trong nước với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ( FDI) vẫn là nỗi lo lớn hiện nay. Muốn tìm tính bền vững, tăng sức cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của khối nội là chuyện không dễ.
Theo Bộ Công Thương, trong 2 tháng đầu năm 2016, kim ngạch xuất khẩu (XK) ước đạt 23,66 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2015. Tuy nhiên, trong khi kim ngạch XK của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng khoảng 806 triệu USD, thì kim ngạch của khu vực trong nước lại giảm đến 288 triệu USD.
Chính vì vậy nên Bộ Công Thương mới nhận định “xuất khẩu của các DN trong nước vẫn còn nhiều khó khăn”.
Giảm giá trị, khối ngoại lấn át
Mặc dù kim ngạch XK nhóm hàng nông – lâm – thuỷ sản và công nghiệp chế biến từ đầu năm 2016 đến nay có tăng, nhưng thực tế cho thấy, trong số 42 nhóm mặt hàng thống kê xuất khẩu (trừ hàng hoá khác) thì có đến 21 nhóm mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm.
Đơn cử một số mặt hàng có kim ngạch XK giảm so với cùng kỳ năm 2015 như: thức ăn gia súc và nguyên liệu, hóa chất, phân bón các loại, chất dẻo nguyên liệu, clanke và xi măng…Trong đó, những mặt hàng tính được về lượng như phân bón, sản phẩm hoá chất, clanke và xi măng đã giảm trên 17%.
Một số nhóm mặt hàng lớn có tốc độ tăng trưởng khá trong năm 2015 là điện thoại các loại, linh kiện, máy vi tính, linh kiện điện tử, máy quay phim và linh kiện đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại đã ảnh hưởng đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam.
Riêng kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu, khoáng sản trong hai tháng đầu năm nay chỉ ước đạt 0,41 tỷ USD, giảm 51,7% so với cùng kỳ năm 2015 và hiện chỉ chiếm tỷ trọng 1,7%. Nhất là mặt hàng than đá có lượng giảm đến 86,3%.
Đó là chưa kể, so với cùng kỳ, giá bình quân của đa số các mặt hàng đều giảm (ngoại trừ nhân điều tăng 5,4%). Giảm mạnh nhất là mặt hàng quặng và khoáng sản khác; dầu thô; xăng dầu; sắt thép; cao su; cà phê; hạt xơ sợi dệt các loại; sắn và các sản phẩm từ sắn; gạo; tiêu…
Trong một báo cáo của Bộ Công Thương về hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2011 – 2015 để đệ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội, có nêu rõ tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng không bền vững.
Nhóm sản phẩm công nghệ chế biến, chế tạo (điện thoại, điện tử, dệt may, giày dép…) chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu nhưng hầu hết là gia công, lắp ráp nên giá trị gia tăng rất thấp.
Một điểm lưu ý hiện nay là Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào một số ít thị trường như EU, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và ASEAN. Chỉ tính riêng 5 thị trường này đã chiếm 71% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2015.
Theo đánh giá của ông Vũ Bá Phú, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, với hội nhập theo độ sâu và độ rộng từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) như hiện nay, hoạt động XK của Việt Nam luôn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những cú “hắt hơi” của các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Ông nhận định, mỗi biến động trên thị trường thế giới khiến cho sức mua giảm (chẳng hạn thị trường EU) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và kim ngạch XK của Việt Nam.
Video đang HOT
Hoặc đơn cử như mỗi lần “cựa quậy” của nền kinh tế Trung Quốc đã ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động XK, nhất là khi Trung Quốc tăng XK và giảm nhập khẩu từ Việt Nam.
Trong hai tháng đầu năm 2016, kim ngạch XK khu vực trong nước giảm đến 288 triệu USD
Vẫn thiếu tính bền vững
Giới chuyên gia kinh tế ngày càng tỏ ra quan ngại về sự mất cân đối tỷ trọng XK giữa DN trong nước khi khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang chiếm đến 68,2% trong tổng kim ngạch XK.
Ông Phạm Thành Kiên, Giám đốc Sở Công Thương Tp.HCM đánh giá việc tăng trưởng XK khi còn phụ thuộc khá lớn vào sản phẩm XK của một số ít DN FDI sẽ không đảm bảo được tính bền vững trong tăng trưởng XK.
Riêng hoạt động xuất khẩu tại Tp.HCM, ông Kiên lưu ý mặt yếu hiện nay là năng lực cạnh tranh của DN còn hạn chế về vốn, công nghệ và quản trị. Chỉ số về chi phí không chính thức của DN phải bỏ ra vẫn tiếp tục ở nhóm cao của cả nước, làm giảm năng lực cạnh tranh của DN.
Theo ông Phạm Thành Kiên, kim ngạch XK của Tp.HCM vào khu vực ASEAN giảm mạnh, nhập khẩu từ khu vực này tăng thấp, cho thấy hàng hoá của thành phố với khu vực này chịu sức ép cạnh tranh cao, chưa tận dụng được các cơ hội mang lại từ các FTA.
Về phía Bộ Công Thương, để gia tăng xuất khẩu trong thời gian tới, sẽ triển khai tích cực hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu cho tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, theo Bộ Công Thương, cần phải quan tâm cả thị trường nội địa và thị trường XK, nhất là đối với những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh như nông sản, thủy sản, dệt may, da giầy, đồ gỗ, hàng điện tử…
Bộ Công Thương cho biết sẽ đẩy mạnh hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng XK có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường XK truyền thống, tiềm năng và khai thác thị trường XK mới.
Rõ ràng, để năm 2016 đạt được mục tiêu mà Quốc hội đã giao là tăng trưởng xuất khẩu ít nhất 10% thì ngành Công Thương còn rất nhiều việc phải làm.
Theo Thời Báo Kinh Doanh
Khi cách nghĩ của Việt Nam khác Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan
Trong Nhật Bản, Hàn Quốc hay Thái Lan coi làn sóng FDI như một cơ hội để chuyển giao vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý thì Việt Nam lại đang có xu hướng coi FDI như một thành phần chủ chốt trong nền kinh tế về lâu dài.
Ảnh minh họa từ Internet
Không khó để nhận ra tầm quan trọng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với nền kinh tế Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước vào năm 2015 đã lên tới 70%. Và các văn kiện chính thức của chính phủ Việt Nam đều cho rằng khu vực FDI là động lực tăng trưởng chủ đạo của nền kinh tế.
Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khu vực FDI không khác gì một cỗ xe tăng giúp hàng hóa của đất nước tiến sang các thị trường lớn trên thế giới một cách mạnh mẽ. Nhưng, khi mà chiếc xe tăng ấy trong quá trình di chuyển đang để lại những vết nứt lớn trên bề mặt nền kinh tế đất nước thì cần nhìn nhận lại, xem có nên tiếp tục gia cố chiếc xe tăng vốn đã quá nặng ấy hay không.
Hay là đã đến lúc Việt Nam cần phải xiết chặt lại khu vực FDI?
Thu hút FDI là cả một nghệ thuật của Nhật, Hàn, Thái
Nếu xem xét lại quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thông qua kinh nghiệm phát triển của các quốc gia Đông Á, sẽ nhận ra một thực tế rằng: thu hút vốn FDI như thế nào là cả một nghệ thuật. Mà điển hình là 2 trường hợp đã chứng tỏ họ đã tận dụng rất tốt FDI để trở thành những quốc gia phát triển là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Hai trường hợp này đều cho thấy, nếu có chiến lược tận dụng tốt FDI, cơ hội để trở thành một quốc gia phát triển rất lớn. Ngược lại, nếu không có một chiến lược hiệu quả, thì sẽ phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng, điển hình là Trung Quốc.
Về cơ bản, khu vực FDI được xem như một khu vực kinh tế đem lại cả ba yếu tố cần thiết nhất để phát triển với một quốc gia tụt hậu: vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý. Cho phép các doanh nghiệp FDI vào đầu tư trong nước tức là các quốc gia đã chấp nhận những thiệt thòi nhất định để đánh đổi lấy 3 yếu tố cốt lõi trên. Trong đó, tùy từng quốc gia sẽ có những chiến lược riêng để tận dụng tốt nhất làn sóng đầu tư nước ngoài này.
Điển hình như Nhật, người Nhật quan tâm nhất đến yếu tố công nghệ của khu vực FDI và chủ trương sử dụng nguồn vốn và kỹ năng quản lý nội địa bằng cách tự phát triển. Nhật Bản đã đặt ra những giới hạn rất chặt chẽ để kiểm soát đầu tư FDI một cách triệt để, nếu không có những công nghệ vượt trội mà người Nhật đang thèm khát thì gần như chắc chắn sẽ không thể vào đầu tư trong nền kinh tế nước này.
Một điển hình khác là Hàn Quốc hay Thái Lan. Khác với Nhật, Hàn Quốc giai đoạn thu hút FDI không có nhiều tích lũy về vốn nên chủ trương thu hút 2 trong 3 yếu tố mà FDI mang lại là vốn và công nghệ. Cũng giống như Nhật Bản, Hàn Quốc đã đặt ra những giới hạn chặt chẽ buộc các doanh nghiệp FDI dần chuyển giao công nghệ trong khi tự lực phát triển kỹ năng quản lý và chờ đợi tích lũy vốn theo thời gian.
Những kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc đã được tận dụng triệt để trong trường hợp của Thái Lan, khi chỉ trong một thời gian khá ngắn (từ năm 1986 đến năm 1995) sự phát triển về vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý của các doanh nghiệp nội địa Thái đã phát triển chóng mặt, chiếm tới 72% tư bản trong nền kinh tế, trong đó khối FDI chỉ chiếm có 28%. Các doanh nghiệp FDI tại Thái Lan tuy vẫn giữ vai trò mũi nhọn về công nghệ và vốn nhưng bị buộc phải liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp nội địa trong hàng loạt các khâu và quy trình sản xuất.
Dễ dàng nhận ra, có 3 điểm chung giữa các quốc gia đã thành công trong việc tận dụng khu vực FDI để phát triển nền kinh tế:
1. FDI cần được đặt trong một chiến lược phát triển kinh tế hoàn chỉnh, trong đó cần nghiên cứu kỹ và hoạch định đâu là những ngành cần thu hút đầu tư FDI;
2. Khuyến khích, tạo điều kiện và thậm chí là ràng buộc nếu cần trong việc buộc các doanh nghiệp FDI tạo liên doanh với doanh nghiệp nội địa để thúc đẩy các lĩnh vực phụ trợ và tiến tới chuyển giao công nghệ;
3. Tăng cường sự ràng buộc của khu vực FDI vào nền kinh tế thông qua các liên kết dọc giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp nội, để tăng cường giá trị gia tăng được giữ lại trong nền kinh tế.
Nhưng với Việt Nam thì không
Rõ ràng, nếu xét về 3 tiêu chí chủ đạo trên, Việt Nam đang đi theo một con đường trái ngược với công thức thành công của các quốc gia đi trước như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Thái Lan.
Điều dễ nhận thấy nhất là yếu tố chủ đạo trong việc thu hút vốn FDI của Việt Nam là đang chạy theo số lượng. Nó dẫn đến việc chính phủ, các bộ ngành và các địa phương đua nhau mời gọi các dự án FDI càng nhiều càng tốt bằng mọi giá, mà gần như không có một sự quy hoạch ở mức độ tối thiểu với khu vực đầu tư này và đánh giá tác động của nó đối với nền kinh tế.
Có thể thấy, cách nhìn nhận của Việt Nam đối với vấn đề thu hút đầu tư FDI vẫn đang hết sức thô sơ, chủ yếu vẫn hướng đến việc giải quyết công ăn việc làm và tăng tỷ trọng xuất khẩu, vốn là những yếu tố không mang vai trò cốt lõi trong việc phát triển nền kinh tế.
Trong Nhật Bản, Hàn Quốc hay Thái Lan coi làn sóng FDI như một cơ hội để chuyển giao vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý thì Việt Nam lại đang có xu hướng coi FDI như một thành phần chủ chốt trong nền kinh tế về lâu dài.
Đây được xem là một sự ngộ nhận nguy hiểm, vì khu vực FDI luôn luôn di chuyển tùy thuộc vào nơi nào có điều kiện và môi trường đầu tư tốt hơn. Bất cứ một quốc gia nào cũng sẽ đến thời điểm không còn là môi trường đầu tư số 1 nữa và họ chỉ có một khoảng thời gian nhất định để buộc khu vực FDI chuyển giao 3 yếu tố cốt lõi trên trước khi quá trễ.
Sự ngộ nhận nguy hiểm này về vai trò của khu vực doanh nghiệp FDI đang đem lại những nguy cơ tiềm ẩn khổng lồ.
Trước hết là về sự thất thoát về vốn thông qua sự chuyển dịch giá trị gia tăng. Tính đến cuối năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu của khối FDI đã chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng mức đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng GDP đang thấp hơn rất nhiều, từ 15,2% năm 2005 lên đến 19,5% trong năm 2013. Giá trị xuất khẩu của khối FDI trong năm 2015 tổng cộng đạt 115 tỷ USD, xuất siêu lên đến 17,1 tỷ USD. Nhưng phần lớn lợi nhuận được các doanh nghiệp FDI chuyển về nước, chỉ đóng rất ít cho ngân sách Việt Nam.
Đó là chưa kể các khoản ưu đãi về thuế cũng rất lớn, chẳng hạn như Samsung, mức đóng ngân sách của tập đoàn này trong các năm trước chỉ hơn 500 tỷ đồng, trong khi tổng mức thuế mà họ không phải đóng do ưu đãi lại lên tới gần 2000 tỷ đồng, gấp 4 lần.
Tình trạng này còn đang dẫn tới 2 nguy cơ nghiêm trọng khác là phân hóa nền kinh tế và làm suy yếu các doanh nghiệp nội địa.
Việc thiếu liên kết với các doanh nghiệp trong nước đang biến khu vực FDI thành một bộ phận kinh tế độc lập, rất ít có ràng buộc và quan hệ đối tác với các doanh nghiệp nội, lúc này gần như là một bộ phận kinh tế biệt lập. Thậm chí, làn sóng FDI thời gian gần đây còn có xu hướng nuốt chửng các doanh nghiệp trong nước thay vì tập trung vào sản xuất hàng hóa để xuất khẩu như trước, mà điển hình là các tập đoàn đến từ Thái Lan.
Nói cách khác, khu vực FDI đang ngày càng có xu hướng bành trướng để biến thành một con quái vật tham lam, nuốt chửng hết những gì mà nó có thể trong nền kinh tế Việt Nam, từ các lĩnh vực then chốt như xuất khẩu cho đến thị trường nội địa. Tất cả những hệ quả nguy hiểm đó đều đến từ một sự ngộ nhận về vai trò của khu vực FDI và xuất phát từ việc thiếu một chiến lược hợp lý trong việc khai thác làn sóng đầu tư FDI của Việt Nam.
Theo Một thế giới
Chuối có giá nhờ xuất khẩu Nhà vườn trồng chuối tại Đồng Nai đang bước vào vụ thu hoạch. Năm nay nông dân phấn khởi khi chuối được bán với giá cao từ 7.000 đến 8.000 đồng/kg, cao hơn khoảng 50% so năm trước. Với mức giá này, sau khi trừ chi phí, nhiều gia đình lãi hàng trăm triệu đồng/ha/vụ. Gia đình anh Nguyễn Văn Huy ở xã...