Mỗi người đều tự hào về “tiếng địa phương” của mình
“Ai cũng tự hào về tiếng địa phương của mình. Nếu người nào ở đâu đó ra Hà Nội lập nghiệp mà không muốn nói giọng Hà Nội thì có làm sao?!”.
Đó là chia sẻ của NSƯT Lê Chức, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nghệ sỹ sân khấu Việt Nam, là người hướng dẫn tiếng nói trên sân khấu và tiếng Việt (cho người nước ngoài).
Là người người rất quan tâm tới tiếng Việt, chữ Việt vì NSƯT Lê Chức là giảng viên về nghệ thuật tiếng nói trong biểu diễn trên sân khấu và tiếng Việt.
Cũng là người Hải Phòng, có quê tổ ở Thanh Hóa nhưng hầu như ai gặp Lê Chức, nghe ông nói đều cho rằng ông là người Hà Nội.
Với NSƯT Lê Chức, khi nói cần “tròn vành rõ chữ” người hát Quan họ lại cần thêm: “vang, rền, nền, nẩy”. Và cần dự phòng là – do thói quen mà có khi làm sai lạc nội dung của chữ và nghĩa.
Trong tiếng nói và giọng nói có một vấn đề mà chúng cần phải thừa nhận một cách tự nhiên là có “tiếng địa phương”, NSƯT Lê Chức nói.
NSƯT Lê Chức
Hà Nội cũng nên coi là một địa phương đã – trước khi được là Thủ đô. Mỗi địa phương đều có quyền tự hào về tiếng nói riêng của mình. Tiếng Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hóa, Hải Dương, Hà Tây… khác nhau, từng vùng miền cũng vậy.
Video đang HOT
Nhưng Hà Nội được chọn là thủ đô vì thế như bất kỳ một quốc gia nào, tiếng Thủ đô được coi như là tiếng phổ thông. Không phải ngẫu nhiên mà Hà Nội luôn gắn liền với câu ca dao: “Chẳng thơm cũng thể hoa lài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Ít địa phương nào lại có một câu đẹp để được vinh danh đến thế.
Tìm một thứ tiếng “chuẩn” để làm quy ước thật khó, bởi nó dễ chạm tới những quan điểm về văn hoá, địa lý, tâm lý,… Mặc dù chưa có văn bản nào quy định giọng, tiếng Hà Nội là “chuẩn” quốc gia, nhưng trong đời sống người ta như tự hiểu với nhau rằng: tiếng Thủ đô là tiếng phổ thông với độ đúng cơ bản của “phát âm tiếng Việt”.
Người ta nói: người Hà Nội thường không phân biệt giữa r, d, gi,… hay người miền Nam thì không phân biệt giữa v và d,… Ai cũng biết tiếng nói có trước, chữ viết được hình thành sau với nhiệm vụ là ghi lại tiếng nói thành âm tự, chữ. Như vậy, có một vấn đề là chữ viết thì cần phải đúng theo niêm luật, văn phạm, còn khi nói lại là chuyện của tiếng và giọng của mỗi địa phương.
NSƯT Lê Chức là người Hải Phòng, và biết là người Hải Phòng cũng có người bị lẫn giữa n và l, nhưng đó là tiếng nói của quê ông. Người ở đâu cũng vậy, khi họ ra Hà Nội, họ mang theo văn hóa, tập tục của quê hương mình ra, trong đó có tiếng nói. Nếu họ không có nhu cầu nói giọng Hà Nội, thì đó là chuyện quá bình thường trong cuộc sống cộng đồng.
Khi nào có một văn bản quy định tiếng Kinh, trong đó có tiếng Hà Nội là tiếng “chuẩn” và có tính phổ thông – thì lúc đó chúng ta cần phải bàn thêm. Ông luôn trân trọng giọng nói của tất cả các vùng miền, vì nó là đại diện của văn hoá nơi con người sinh trưởng, và biết tôn trọng giá trị văn hóa quê hương mình, biết tôn trọng giá trị đó – ông tin mỗi người sẽ biết hòa nhập và tôn trọng được cả những giá trị văn hoá ở chỗ khác, nơi đất khách xa xôi…
Ngoài tiếng được coi là “tiếng phổ thông”, còn có một “chuẩn” nữa là tiếng của các địa phương khác nhau với hiệu quả cần nhất là tạo ra được cái đẹp đa sắc của biểu cảm trong các thanh âm, ngữ điệu, sắc điệu, vần điệu, nhịp điệu,… của tiếng Việt.
NSƯT Lê Chức đang chiếm giữ một thời lượng khá nhiều trên các kênh truyền hình, đọc lời bình cho nhiều phim tài liệu, đọc lời dẫn cho một số lễ hội và đọc trong chương trình “Tiếng Thơ” của Đài Tiếng nói Việt Nam – mặc dù là người Hải Phòng nhưng từ các quan niệm trên của cá nhân ông nên đã thành “tự động” trong sinh hoạt hàng ngày và đáp ứng những yêu cầu khắt khe của nghề nghiệp.
Theo Dantri
Lý giải hiện tượng lạ kỳ tiếng Việt
Lý giải về hiện tượng những đảo thổ ngữ lạ giữa một cộng đồng có giọng nói phổ thông, nhiều người thường lý giải là do nước uống, do thổ nhưỡng, do môi trường khắc nghiệt, vùng đầu sóng ngọn gió, ăn to nói lớn...
Một số lý giải khác, như trường hợp làng Mỹ Lợi, thì cho rằng người Quảng đã ra Huế định cư và bảo lưu giọng Quảng của mình suốt 4-5 trăm năm nay (những họ lâu đời nhất ở Mỹ Lợi có gia phả đều đã 16-17 đời). Thế nhưng, rõ ràng những cách trả lời này mang nhiều kiến giải của dân gian hơn là khoa học. Trong khi khoa học, tức các nhà ngôn ngữ trên thế giới, đã lý giải hiện tượng này một cách đầy đủ và khá sâu sắc.
Do một bộ phận dân cư đã thay đổi ngôn ngữ
Quan điểm quan trọng nhất giúp ta hiểu hiện tượng này là của Meillet, nhà ngôn ngữ học người Pháp: "Khi một ngôn ngữ biến đổi nhiều, tạo ra một bộ mặt mới khác với trước đó thì rất có thể là có một bộ phận dân cư đã thay đổi ngôn ngữ". Ở VN, theo GS ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu, các thành phần dân cư đã thay đổi ngôn ngữ của mình để nói tiếng Việt là những người Việt gốc Hoa, gốc Khmer và gốc Chăm"(Hoàng Thị Châu, Tiếng Việt trên các miền đất nước - Phương ngữ học, NXB KHXH 1989, trang 229). Theo chúng tôi, ở miền Trung còn phải kể đến các tộc người thiểu số khác nữa như Rục, Tà Ôi, Bru-Vân Kiều, Ka Tu, Cuối, Mọn, Đan Lai - Ly Hà, Tày Poọng...
Ví dụ, trong thực tế, điều bất cứ ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy là người Ấn nói tiếng Anh rất khác với người Thái nói tiếng Anh và cũng khác xa với người Việt, Nhật, người Hoa, người Pháp nói tiếng Anh. Những nhóm dân cư mà GS Hoàng Thị Châu đề cập đã nói tiếng Việt bằng giọng nói của họ và đã sinh ra những vùng thổ ngữ khác nhau.
Cuốn sách đoạt giải thưởng Sách hay 2012 của tác giả Hồ Trung Tú
Thực tế có nhiều yếu tố để tạo thành một thổ ngữ. Như trường hợp trên là một, ngoài ra ta còn có các trường hợp người Chăm tiếp thu tiếng Việt ở người có giọng Hải Dương, Thái Bình sẽ khác rất nhiều với việc họ học nói tiếng Việt với người Thanh Hóa và sẽ càng khác nếu học nói tiếng Việt với người Nghệ An. Rõ ràng điều đó tạo nên những vùng thổ ngữ khác nhau.
Ngôn ngữ tiếng Việt là ngôn ngữ thanh điệu, chưa kể điệu tính bổng trầm của mỗi vùng thì việc nói đủ sáu dấu thanh là điều khó với bất cứ ai học nói tiếng Việt. Chính vì vậy chúng ta thấy với người nước ngoài họ sẽ không nói được nên bỏ bớt đi một số dấu thanh. Ở một số làng tại Nghệ An, Hà Tĩnh người ta chỉ nói ba thanh nên nghe rất lạ tai, có thể chính là lý do này. Ở Quảng Nam vào đến Phú Yên thì các dấu thanh tương đối đủ, nhưng điểm đặc biệt là sự biến đổi của nguyên âm, đầu têu nhất là mọi âm /a/ đều bị biến thành /oa/ (ở Phú Yên thì /a/ thành như /e/ và Quảng Ngãi, Bình Định là những bước trung gian) nên kéo theo hàng loạt biến đổi khác như: Choa ơi choa, anh Boa ảnh câu con cóa, ảnh để trên hòn đóa con gòa hén en (Cha ơi cha, anh Ba ảnh câu con cá, ảnh để trên hòn đá con gà hắn ăn).
Loạt bài về tiếng nói lạ vừa qua không đề cập đến làng Cao Lao Hạ ở bờ nam sông Gianh, tỉnh Quảng Bình. Đây là một làng ngôn ngữ vì không một nhà ngôn ngữ nào không một lần đến đó để nhận thấy những biến âm kỳ lạ khi cư dân làng này nói tiếng Việt. Trong sách Có 500 năm như thế, chúng tôi đã làm một kết nối: Thì ra làng này chính là thành Khu Túc của nước Chiêm Thành xưa. Thành này đã hoàn toàn thuộc về Đại Việt từ năm 1069 nhưng người dân ở đó vẫn bảo lưu giọng nói của mình và tập nói tiếng Việt theo giọng người Khu bốn, tức chỉ có bốn thanh, và ở đó họ chỉ nói còn ba thanh, không có dấu hỏi, dấu ngã và dấu sắc, tất cả dấu hỏi, dấu ngã và dấu sắc đều được nói như dấu nặng. Chính vì vậy đã tạo nên một ốc đảo ngữ âm lạ.
Ở làng Mỹ Lợi cũng vậy, nhà nghiên cứu Chu Sơn nói làng Mỹ Lợi nói không hẳn ra giọng Quảng vì không nói "mô, tê, răng, rứa" mà nói "đâu, kìa, sao, vậy", nếu vậy thì đây chính là nét để nhận ra giọng Quảng Ngãi. Ở Quảng Nam có rất nhiều làng nằm giữa một vùng Quảng Nam nhưng lại không nói "mi, tau, mô, tê, răng, rứa" mà nói "mầy, tao, đâu, kìa, sao, vậy" giống Quảng Ngãi như Phong Lệ, Thanh Quýt, Mã Châu, Phú Nham, Tây Gia, Phú Bình... Cứ như theo ngữ điệu mà xét thì ta thấy giọng nói các làng này khá gần với Quảng Ngãi. Tại sao lại có hiện tượng những ốc đảo giọng Quảng Ngãi, Bình Định ở giữa Quảng Nam hay Huế?
Từ thổ ngữ nhận ra lịch sử
Khi một bộ phận dân cư thay đổi ngôn ngữ thì dấu hiệu đặc trưng nhất giúp ta nhận biết đó chính là ngữ điệu và ngữ âm. Ví dụ dễ thấy là người Việt nói tiếng Anh, và bất cứ người nước nào khác cũng vậy, khi nói tiếng Anh khó nhất là ngữ điệu của người Anh. Ở VN ta thấy nếu lấy ngôn ngữ vùng đồng bằng Bắc bộ làm chuẩn, và cả giọng Khu 4 cũ (tức các tỉnh từ Nghệ An vào Thừa Thiên - Huế) cũng rất nhiều bổng trầm, thì phương ngữ Nam Hải Vân đến tận Cà Mau hầu như đã đánh mất ngữ điệu đó.
Nhà báo, nhà nghiên cứu Hồ Trung Tú - Ảnh: Thảo Nguyên
Để đồng thuận được điều này chúng ta cần thống nhất thời điểm hình thành vùng phương ngữ Nam Hải Vân này. Sách Ô Chân Cận Lục của Dương Văn An, được viết năm 1553, đã phân biệt vùng Thuận Hóa (tức các tỉnh từ Quảng Bình đến một phần tỉnh Quảng Nam nay) có hai giọng nói là giọng Châu Hoan và giọng Châu Hóa. Giọng Châu Hoan được xác định là giọng của người Khu 4 cũ (Vinh đến Huế nay), vậy giọng Châu Hóa là gì nếu không phải là giọng Quảng Nam? Nhìn lại lịch sử, vùng đất Quảng Nam có người Việt đặt chân đến định cư bắt đầu từ năm 1306 và chắc chắn giọng nói vùng này cũng hình thành từ đó do cuộc biến đổi từ một bộ phận người Chăm đã thay đổi ngôn ngữ, tức người Chăm nói tiếng Việt mà thành. (Xem thêm từ sách Có 500 năm như thế - Hồ Trung Tú).
Trong suốt 700 năm qua, có nhiều làng người Chăm ở Quảng Bình đến Quảng Nam vẫn bảo lưu giọng nói của mình và chỉ chịu chuyển sang nói tiếng Việt vào các thế kỷ sau, thậm chí có làng, nhất là các làng biển, mãi đến thế kỷ 18 họ mới hoàn toàn chuyển hẳn sang nói tiếng Việt. Nó cho ta một hình dung về chuyện người Chăm chuyển sang nói tiếng Việt sớm muộn khác nhau mà ra những vùng thổ ngữ khác nhau.
Mô hình này cho ta hình dung câu trả lời hiện tượng những làng nói giọng lạ, mà loạt bài về "Lạ kỳ tiếng Việt đó đây" đã đề cập. Nếu bỏ công truy tìm ở các làng thổ ngữ này chắc chắn ta sẽ tìm thấy nguồn gốc xa xưa của một tộc người nào đó đã từ bỏ ngôn ngữ của mình để nói tiếng Việt, và điều này mở ra những khả năng nghiên cứu bản sắc địa phương lý thú hơn rất nhiều.
Nếu chấp nhận mô hình này, chúng ta sẽ mặc nhiên có được một công cụ quan trọng để nhìn vào các bước đi của lịch sử trong trường hợp đã mất hết các sử liệu, tức giúp ta hình dung về những cuộc chuyển động, va chạm của các tộc người, sự tiếp biến của các nền văn hóa đã từng xảy ra cách nay vài trăm đến hàng ngàn năm trước.
Theo lịch sử Nam tiến, người Quảng Ngãi phải nói tiếng Việt muộn hơn người Quảng Nam và người Bình Định thì càng muộn hơn nữa, người Phú Yên rõ ràng chỉ chịu chuyển sang nói tiếng Việt sau năm 1611 (theo chúng tôi, ở đây phải cuối thế kỷ 17 này mới hoàn toàn chuyển sang tiếng Việt). Nếu giọng Quảng Nam do người Chăm nói tiếng Việt của người Hải Dương, Thanh Hóa mà thành thì có thể giọng Bình Định, Phú Yên là do người Chăm nói tiếng Việt theo giọng người Quảng Nam mà có (giai đoạn này do chiến tranh Trịnh - Nguyễn nên không có Nam tiến nữa)!
Theo 24h
Làng nói "tiếng Nhật" ở Quảng Trị "Ga ni ga mô/ ga mô ri eng/ ga ni ga chi/ O ni đi mô/ o mô đi ra, o mô đi vô/ đi vô ga mô ri...". Mới thoạt nghe môt loạt câu nói trên dê nhâm tưởng là người... Nhât đang nói chuyên, nhưng thât ra đó là môt nhóm dân Vĩnh Hoàng đang đi trên tàu chợ! Thât tiêc...