Miếng cơm và nước mắt ở làng lặn biển Xuân Hòa
Vào tháng Giêng âm lịch hàng năm, ngư dân hành nghề lặn biển ở thôn Xuân Hòa, xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) lại chuẩn bị cho những chuyến ra khơi đắm mình dưới đáy biển sâu lặn bắt hải sản… Nghề này đưa lại cho họ bát cơm hàng ngày nhưng cũng lấy đi nhiều nước mắt.
Đánh cược sinh mạng dưới biển sâu
Theo lời giới thiệu của ngư dân, chúng tôi tìm đến nhà ông Trần Hữu Sơn (SN 1966) – người có tuổi nghề gần như lâu nhất ở xóm chài này. Thấy chúng tôi đến, ông bước từng bước chân khó nhọc rót nước mời, rồi kể về câu chuyện cuộc đời mình: Năm 1985 ông đi nghĩa vụ quân sự, xuất ngũ thì trở về quê theo mấy anh em học nghề lặn. Năm 1992, một số người trong làng vào biển Phan Thiết lặn để bắt hàu, nhiều người giàu lên nhờ đi lặn, thế là mọi người kéo nhau đi Phan Thiết lặn biển.
Ông Trần Hữu Sơn cùng bộ nghề lặn biển thô sơ. Q.N
Nghề lặn biển theo thời gian đã trở thành nghề truyền thống của ngư dân Xuân Hòa. Những sản vật từ lòng biển đã mang lại bát cơm cho họ hàng ngày, nhưng cùng với đó là biết bao câu chuyện về người vợ mất chồng, cha mất con và cả nỗi buồn của những người thợ lặn suốt đời mang thương tật cùng niềm mong mỏi “không muốn con nối nghiệp cha”…
Video đang HOT
“Trong đó làm cực lắm, khi nào cũng lặn xuống sâu dưới đáy biển 20-30m tìm hàu. Hàu lệ thời đó giá cao, mỗi tháng chăm chỉ tôi cũng được 20 đến 30 triệu đồng. Sau nhiều năm theo nghề lặn biển, sức khỏe giảm sút, chân tay tê tái, tôi đi khám ở nhiều bệnh viện. Bác sĩ nói do tôi lặn nhiều bị sức ép nước làm tổn hại đến não và các dây thần kinh nên bị liệt chân khó điều trị. Tôi đi chữa trị khắp từ Bắc vào Nam rồi nhưng vẫn không cải thiện được mấy, bây giờ đành chấp nhận sống với bệnh tật” – ông Sơn kể.
Cũng giống ông Sơn, anh Trần Hữu Anh (SN 1971) bắt đầu đi lặn từ năm 20 tuổi: “Làm cái nghề “người trần gian làm việc âm phủ” cũng sợ lắm, nhưng vì dân ở biển hoàn cảnh khó khăn nên không bỏ được”. Câu chuyện trở nên đứt quãng khi anh nói về thương tích của mình: “Vào nghề lặn được 8 năm thì hàu ở quê bán được giá, anh em kéo nhau về quê và đi hành nghề ở vùng biển phía bắc. Trong một lần đang lặn ở đảo Bạch Long Vỹ ở độ sâu khoảng 15m, mới xuống biển được khoảng 15 phút thì chân tui tê tê sau đó chuyển dần đến bụng, tui vội vàng ngoi lên mặt nước. Lênh đên trên biển hơn 10 ngày tui mới được các anh em đưa vào bờ. Dù được vợ con đưa ra Hà Nội điều trị nhưng nhưng đã quá muộn giờ phải mang thương tật liệt chân suốt đời”- anh Hữu Anh tâm sự.
Không thể kể hết những nỗi đau, mất mát từ nghề lặn biển đem lại. Ông Trần Công Tiến- Trưởng thôn Xuân Hòa cho biết: Cứ đến mùa lặn, cả thôn có gần 200 người theo nghề nguy hiểm này, chủ yếu là thanh niên trai tráng. Nghề lặn mang lại thu nhập cao, nhưng cũng để lại nhiều hậu quả, ngoài những người bị thương tật suốt đời thì cũng không ít người phải bỏ mạng, trong đó thương tâm nhất là em Trần Hữu Thuật.
Tháng 8.2016, Thuật đang là sinh viên Trường Đại học Mỏ- Địa chất tại Hà Nội. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ bệnh nặng, không có tiền học nên Thuật phải tạm nghỉ học về quê theo người dân đi lặn biển kiếm tiền với mong quay lại giảng đường. Trong lúc đi lặn tại khu vực cửa biển Lạch Kèn (thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh), gặp sự cố khi thuyền dời đi khiến vòi ôxy bị ngập dẫn đến Thuậtbị ngạt thở và tử vong.
Không muốn con cháu nối nghề
Câu chuyện về những người lặn biển sẽ không bao giờ có hồi kết, khi mỗi chuyến ra khơi của những người thợ lặn chỉ được trang bị “đồ hành nghề” thô sơ như kính lặn, 150m dây hơi, đồ bơi nhái, chân vịt, vợt lưới. Để ở lâu dưới biển, họ còn phải mang trên mình từ 15-20kg chì. Họ không có điều kiện để mua sắm những thiết bị lặn đúng tiêu chuẩn, không có những bộ chỉnh áp và thở oxy dưới nước theo quy định. Trong khi đó, việc điều chỉnh áp suất là vô cùng quan trọng. Hầu hết những vụ tai nạn biển của thợ lặn đều do việc mất cân bằng áp suất. Đã nếm trải hết những mất mát từ nghề lặn mang lại, ông Sơn hay anh Anh đều mang một nỗi niềm chung đó là không muốn cho con theo nghề cha.
“Tôi đã phải thuyết phục mãi con tui mới chịu ra Hà Nội học nghề cơ khí, chứ nó ở nhà là đi lặn theo người dân trong làng. Nhiều lần nó cứ muốn bỏ học để về đi lặn kiếm tiền chữa bệnh cho tôi, nhưng tôi không cho. Khuyên mãi nó mới nghe ra trường học, tuy nhiên ra được năm bữa nửa tháng nó lại mò về theo mấy tụi nhỏ đi lặn, tôi lo lắm” – anh Trần Hữu Anh cho hay.
Theo Danviet
Vượt qua ngày "biển động"
Lâu nay, biển cả chính là nguồn sống của người dân xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong. Thế nên, khi sự cố môi trường biển xảy ra, những ngư dân vốn vững chãi trước sóng gió rất hoang mang. Với tinh thần "còn da lông mọc, còn chồi nảy cây", bà con vùng biển Triệu Vân đã nỗ lực vượt qua gian khó.
Bà Nguyễn Thị Vấn chăm sóc đàn gia cầm của gia đình
"Giờ thì dẫu chồng cùng bạn tàu vượt sóng ra biển hay ở nhà nghỉ ngơi, tôi cũng không lo chuyện thiếu ăn, thiếu mặc nữa", bà Nguyễn Thị Vấn, trú tại thôn 7, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong chia sẻ. Cách đây khoảng một năm, có lẽ bà không dám nói điều này. Bấy giờ, kinh tế gia đình bà Vấn phụ thuộc hoàn toàn vào những chuyến vươn khơi, bám biển của chồng. Mỗi lần chiếc tàu chở ông Phan Văn Vấn khuất bóng giữa đại dương mênh mông, bà lại quay về, xắn tay lo liệu việc cửa nhà. Ngày tàu chồng cập bến, bà và những chị em trong thôn hồ hởi xách thúng mủng lấy cá, rồi mang đi bán. Số tiền thu được bà Vấn dành dụm để lo liệu cho gia đình.
Cuộc sống cả nhà dựa vào những chuyến vươn khơi nên khi sự cố môi trường biển xảy ra, vợ chồng bà Nguyễn Thị Vấn đều đứng ngồi không yên. Trong lúc đang hoang mang, ông bà mừng rỡ khi được các cán bộ nông nghiệp đến thăm nhà, tư vấn, hướng dẫn xây dựng mô hình kinh tế mới. Thấy có lý, bà Vấn dồn số tiền tiết kiệm được cùng với khoản hỗ trợ sinh kế để trồng cỏ voi, nuôi bò; đào ao, thả cá; chăn nuôi vịt, gà, ngan; trồng các loại rau màu... "Mô hình VAC đã giúp vợ chồng tôi vơi nhiều nỗi lo lắng. Chúng tôi đang quyết tâm mở rộng mô hình để tăng thêm thu nhập", bà Vấn khẳng định.
Trong khi hầu hết hộ dân xã Triệu Vân tìm hướng phát triển kinh tế thông qua việc chọn giống cây, con phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của vùng thì một số gia đình chủ động đến với những nghề ít ai để ý nhưng lại cho nguồn thu nhập ổn định. Trên địa bàn xã, mô hình đúc bờ lô bằng máy của vợ chồng chị Trần Thị Nhung (trú tại thôn 8) được khá nhiều người học tập. Trước đây, kinh tế của gia đình chị Nhung phụ thuộc chủ yếu vào những chuyến đi biển của chồng. Trung bình mỗi tháng, anh đưa về từ 4 - 5 triệu đồng để vợ trang trải cuộc sống.
Về phần mình, lúc rảnh rỗi, chị Nhung thường đúc bờ lô bằng tay để xây nhà và bán cho ai có nhu cầu. Trước thực trạng cá chết hàng loạt, chị Nhung bàn với chồng đầu tư gần 100 triệu đồng để xây dựng nhà xưởng và mua máy đúc bờ lô liên hoàn. Chẳng bao lâu công việc phụ của gia đình trở thành nghề chính. Bờ lô của gia đình chị Nhung được khách hàng rất ưa chuộng và ngày càng vươn xa. Chị Nhung cho biết: "Để đáp ứng nhu cầu của khách, hiện tại, vợ chồng tôi thuê thêm hai nhân công lao động, trả lương theo sản phẩm với thu nhập trung bình từ 200 - 300 ngàn đồng/ngày".
Những ngày này, không khí lao động, sản xuất của người dân xã Triệu Vân rất khẩn trương, sôi nổi. Đàn ông, trai tráng trong xã miệt mài sửa sang tàu thuyền, ngư lưới cụ để chuẩn bị cho chuyến biển tiếp theo. Trên những mảnh vườn xanh tươi, mọi người cần mẫn gieo trồng, chăm sóc cây trái. Hình ảnh này trái ngược hẳn với không khí trĩu nặng âu lo vào thời điểm sự cố môi trường biển xảy ra. Dẫn chúng tôi về thăm một số hộ dân, ông Hồ Xuân Đức, Phó Chủ tịch UBND xã Triệu Vân cho biết, xã Triệu Vân có 4 thôn với 785 hộ, 3.260 nhân khẩu.
Toàn xã có 110 lao động trực tiếp bám biển và hơn 600 lao động gián tiếp. Khi sự cố môi trường biển xảy ra, hầu hết những người sống dựa vào biển đều lúng túng. Họ không biết sẽ làm gì để sống trong hoàn cảnh đồng vốn dắt túi chẳng đáng là bao, thiếu kinh nghiệm sản xuất, trình độ khoa học - kỹ thuật hạn chế... "Lúc ấy, cán bộ xã chúng tôi cũng âu lo không kém bà con. Nếu chậm giải quyết khó khăn này chắc chắn điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình an ninh trật tự của địa phương sẽ bị ảnh hưởng. Trước thực tế đó, chúng tôi đã có rất nhiều cuộc họp để bàn bạc, thảo luận, rồi đưa ra những giải pháp", ông Hồ Xuân Đức cho biết.
Khác với cách làm của hầu hết các địa phương bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển là tổ chức nhiều buổi hội nghị, tập huấn để dạy nghề, chuyển giao khoa học - công nghệ, cán bộ xã Triệu Vân được chỉ đạo đi từng ngõ, gõ từng nhà tìm hiểu thực tế và "bắt tay chỉ việc", hướng dẫn người dân xây dựng mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Các cán bộ Sở Nông nghiệp &PTNT tăng cường về địa phương phối hợp chặt chẽ với cán bộ xã "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" để hướng dẫn bà con từ những việc nhỏ nhất như làm đất, dựng chuồng trại, chọn giống, phòng trừ dịch bệnh... Từ các nguồn vốn hỗ trợ sinh kế, nông thôn mới và giảm nghèo dành cho vùng bãi ngang, lãnh đạo UBND xã Triệu Vân đã hỗ trợ cho 90 hộ dân xây dựng các mô hình kinh tế mới. Tuỳ vào điều kiện của từng hộ và đặc thù mô hình kinh tế được triển khai mà người dân được hỗ trợ từ 5 - 20 triệu đồng. Ngoài ra, cán bộ xã Triệu Vân cũng vận động bà con phát huy nội lực của bản thân, gia đình; giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau; kêu gọi sự tiếp sức của các tổ chức, cá nhân...
Những nỗ lực của chính quyền và nhân dân xã Triệu Vân sớm mang lại hiệu quả. Hiện nay, 39 mô hình kinh tế mới của người dân trên địa bàn xã đã được xây dựng, nghiệm thu, mang lại tín hiệu khả quan. Hàng chục mô hình còn lại vẫn đang được triển khai, được người dân rất kỳ vọng. Một số mô hình như chăn nuôi lợn F1, F2; trồng gấc kết hợp nuôi gà; mướp đắng kết hợp ném kiệu... cho thu nhập khá. Từ đó, nhiều hộ dân đã có điều kiện để mở rộng mô hình, lên phương án làm ăn mới. Cuộc sống của người dân địa phương ngày càng ổn định. Sau một thời gian "nghỉ ngơi", tàu thuyền của ngư dân xã Triệu Vân đã tiếp tục vươn khơi, bám biển và trở về đầy ắp cá tôm. Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, bà con ngư dân trên địa bàn đã thu được gần 2,5 tấn cá khoai và hơn 1 tấn các loại cá khác. Trong khó khăn, ngư dân xã Triệu Vân không gục ngã mà nỗ lực vươn lên. Minh chứng là giờ đây, ngoài bám biển, họ đã quen với cây cuốc, cây rựa và có thể làm giàu từ những mô hình kinh tế mới.
Theo Quang Hiệp (Báo Quảng Trị)
Ngư dân trúng 'lộc biển' với khoang tàu đầy cá cơm Sau hai ngày ra khơi, nhiều tàu của ngư dân Hà Tĩnh trúng từ 3 - 6 tấn cá cơm trắng, thu về khoảng 40 đến 70 triệu đồng. Chiều 17/2, hàng chục tàu cá của ngư dân cập cảng cá Cửa Sót, xã Thạch Kim (huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh), trên khoang đầy ắp cá cơm trắng. Cảnh vận chuyển, mua bán...