Mênh mông Ba Bể
hân mới chớm bước đến bên hồ, mắt chớm nhìn thấy mặt nước mênh mông đã bị quyến rũ bởi vẻ đẹp kỳ vĩ của hồ Ba Bể.
Sáng sớm, khi sương mù còn giăng khắp núi rừng, hồ Ba Bể thấp thoáng như nàng tiên đang bay lượn với tấm váy trắng tinh khổng lồ. Khi hoàng hôn đổ bóng, hồ Ba Bể lung linh huyền ảo trong muôn vàn tia nắng rực rỡ.
Hồ Ba Bể. Ảnh: Báo Bắc Kạn Online
Ngồi trên chiếc tàu nhỏ do một thanh niên người dân tộc Tày cầm lái lướt sóng trên mặt hồ, chúng tôi càng ngất ngây trước vẻ sơn thủy hữu tình của hồ Ba Bể. Mặt hồ mênh mông như một bể chứa nước ngọt khổng lồ với diện tích 650ha, độ sâu trung bình 20 – 25m, chạy dài hơn 8km. Nước hồ trong vắt, phía dưới là tôm tép, cua cá đang thỏa sức bơi lội kiếm ăn.
Sát ven hồ, thấp thoáng chỗ này màu đỏ tươi của hoa rừng, chỗ kia là vạt hoa trắng tinh khôi bám vào vách núi. Xa xa, trên những bãi đất bồi ven hồ, từng khóm tre xanh xào xạc trong làn gió mát, vài chú trâu nhởn nhơ gặm cỏ, mươi chú cò trắng dạo bước trên đôi chân khẳng khiu gợi cảnh thanh bình. Và kìa, đàn bướm trắng như những vị chủ nhà mến khách túm tụm trên bãi đất trống hoặc bay lượn trên không chào đón du khách đến với Ba Bể.
Không chỉ có hoa có bướm mà còn có cả những du khách ta và Tây vẫy chào nhau mỗi khi thuyền xuôi thuyền ngược. Thật thú vị khi được ngắm những cô gái Tày xinh xắn trong trang phục áo chàm chèo thuyền độc mộc đưa du khách đi thưởng ngoạn cảnh hồ. Thường là khách du lịch nước ngoài thích gần gũi thiên nhiên nên chọn đi thuyền gỗ, còn đa phần du khách trong nước không có nhiều thời gian rong ruổi nên ngồi thuyền máy, có điều tiếng máy nổ và mui che ít nhiều đã làm giảm đi cái vẻ lãng mạn của non nước Ba Bể.
Ngước mắt lên là những dãy núi đá cao sừng sững bạt ngàn cây xanh tươi tốt, muông thú sinh tồn. Còn tít tắp trên kia là vòm trời trong xanh, mây trên trời nghiêng ngó mây dưới nước. Tôi khỏa tay xuống nước, cảm giác mát mẻ chạy đến từng chân tơ kẽ tóc. Bao nỗi nhọc nhằn nơi phố phường đông đúc bụi bặm như được trút bỏ trên mặt hồ mênh mông.
Đang đắm mình trong trời nước bao la, thuyền giảm tốc tiến về phía động Puông. Chúng tôi leo lên, lập tức sửng sốt trước vẻ đẹp kỳ ảo của hang động, dưới chân là hang đá, nhấp nhô những cột chống trời khổng lồ, trên vòm động là nhũ đá với muôn vẻ hình thù đâm xuống tua tủa. Đi xuống phía dưới là một khúc hồ như con sông nhỏ xuyên qua động Puông. Du khách trầm trồ ngợi ca vẻ đẹp của động Puông không kém gì hang động trên vịnh Hạ Long hay Phong Nha – Kẻ Bàng.
Rời động Puông, chúng tôi lại lênh đênh trên mặt hồ. Mê say, thích thú là cảm giác chung của du khách khi ngồi trên thuyền ngắm cảnh Ba Bể nhưng vẫn gợi một chút suy tư khi thi thoảng lại chứng kiến một vạt rừng trơ trụi do bị người dân phá đi làm rẫy, hay đôi lúc thuyền khựng lại ở những đoạn nước hồ vơi cạn. Chuyện nước hồ Ba Bể đang cạn dần đã được cảnh báo nhưng việc phòng tránh thì chưa được tính đến. Và để cho hồ Ba Bể luôn giữ được vẻ đẹp hoang sơ, có lẽ chính quyền tỉnh Bắc Kạn nên nghĩ đến việc di dời người dân sống ở sát bờ hồ đi nơi khác khi còn chưa muộn.
Xuôi về phía hạ lưu, xa xa đã nghe thấy tiếng nước đổ ầm ầm từ con thác Đầu Đẳng – một khúc gãy của sông Năng đổ xuống phía tây Vườn quốc gia Ba Bể và chảy vào đất Tuyên Quang. Thác Đầu Đẳng dài khoảng 1km, có nhiều ghềnh đá là nơi du khách thưởng ngoạn, ngắm nhìn thác nước trắng xóa bắn tung tóe, tiếng thác đổ ầm ầm, và cũng là nơi người dân đến đây câu cá.
Video đang HOT
Trò chuyện với bố con anh Phùng Văn Huấn đang câu cá, anh cho biết hai bố con là người dân tộc Tày ở bản Đa Vị, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, chèo thuyền sang đây để câu cá. Có ngày hai bố con câu được 3kg cá. Hỏi anh có nhiều người đến thác câu không, anh bảo tùy từng ngày, ngày nhiều đến vài chục người, ngày ít cũng dăm ba người, đi câu vừa để giải trí vừa có cá ăn, câu được nhiều thì đem bán.
Không chỉ có cá, Ba Bể còn có rất nhiều tép, người dân sống quanh hồ thường đơm đó bắt tép. Tép chua là một trong những món đặc sản ở Ba Bể. Tép bắt ở hồ lên còn tươi nguyên, đem rửa sạch, bỏ muối, cơm chín, men, rượu, đảo lửa, để ba ngày sau đem ăn rất thơm, ngon. Bánh trứng kiến cũng là đặc sản ở hồ Ba Bể, nguyên liệu chế biến là bột gạo nếp và nhân là trứng kiến đen lấy ở trên rừng chỉ ngày 3 tháng 3 mới có.
Ăn bánh trứng kiến, uống chè tuyết Ba Bể càng làm cho du khách thêm lâng lâng khoái cảm. Chè tuyết hái từ những cây chè trên rừng cao to, có độ tuổi từ 3 – 30 năm, được sao chế một cách kỹ càng, uống thơm ngon, lúc đầu có vị đắng, sau có vị ngọt. Hằng ngày có hàng chục người dân tộc sống ở quanh hồ mang các thứ đặc sản như bánh giày, bánh trứng kiến, cơm lam, chè tuyết, tép chua, mật ong rừng đến các khách sạn, nhà nghỉ, bến tàu để bán cho du khách.
Ba nhánh thông nhau của hồ Ba Bể là Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Nước từ hồ này có thể chảy sang hồ kia nhưng tàu thuyền không qua lại được vì bị ngăn cách bởi những vách đá. Và thật kỳ lạ, ngay giữa hồ Ba Bể mênh mông lại có một cái ao gọi là ao Tiên. Gọi là ao vì xung quanh có bờ, không phải bằng đất mà là vách núi đá cao sừng sững. Nước ao trong xanh phẳng lặng mang đến cho du khách cảm giác bình yên.
Cũng thật kỳ lạ, giữa hồ Ba Bể mênh mông lại có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ là đảo Bà Ngõa và đảo An Mã. Gọi là đảo An Mã vì nó giống như con ngựa đóng cương đang lội nước. Ngày mồng 5 tháng Giêng hằng năm trên đảo có hội Lồng tồng – lễ xuống đồng của người dân tộc sống trong vùng để cầu mong mùa màng tốt tươi, dân làng no ấm.
Đền An Mã linh thiêng nằm trên một khu đất rộng, phía trước trồng nhiều loại hoa, gió từ dưới hồ thổi lên mát rượi. Chúng tôi thắp hương trong ngôi đền, cầu mong sức khỏe, cầu mong cho hồ Ba Bể sớm được tỉnh Bắc Kạn và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình hồ sơ lên Tổ chức UNESCO để được công nhận là kỳ quan thiên nhiên thế giới.
Hồ Ba Bể hoàn toàn xứng đáng là kỳ quan thiên nhiên thế giới vì đây là kiến tạo vĩ đại của thiên nhiên vào cuối kỷ Cambri cách đây 200 triệu năm. Đây cũng là hồ nước ngọt lớn nhất Việt Nam. Năm 1995, hồ Ba Bể được Hội nghị hồ nước ngọt thế giới tổ chức tại Mỹ công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Cuối năm 2004, Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản ASEAN. Trên núi có hồ quốc gia, dưới núi có rừng quốc gia, tỉnh Bắc Kạn đang được thiên nhiên ưu đãi hai thứ tài sản vô giá không chỉ về môi trường sinh thái mà còn là nguồn thu lớn từ du lịch nếu biết đầu tư, quảng bá. Mỗi năm có hàng ngàn người, trong đó có rất nhiều du khách nước ngoài lặn lội đường xa đến với hồ, nhưng chừng ấy vẫn là quá ít so với một Ba Bể mênh mông, huyền ảo.
Ba Bể như một nàng tiên xinh đẹp đang ngủ, cần đánh thức để cho nước hồ thêm mênh mông, xanh biếc, để chim chóc thêm lời hát ca, để du khách trong và ngoài nước náo nức đổ về.
Trở lại Lũng Cú
Mỗi lần lên Lũng Cú, ngắm nhìn cột cờ Tổ quốc vươn cao giữa trập trùng núi đá giăng thành nơi ải Bắc, tôi có ấn tượng rất đặc biệt.
Lá cờ rộng 54 mét vuông, tượng trưng cho 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam, bay giữa đất trời, vẫy gọi, thu hút. Những cột cờ đầu tiên đã được dựng lên ở đây bằng cây sa mộc từ thời Lý. Qua bao thay đổi thăng trầm, cột cờ Lũng Cú vẫn luôn là dấu mốc lịch sử, khẳng định chủ quyền của người Việt, biểu tượng cho khát vọng "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" của cha ông ta từ xa xưa.
Quang cảnh bản Lô Lô Chải- Lũng Cú.
Năm 2012, sau khi cột cờ Lũng Cú được tôn tạo lại, tôi đã có dịp lên đây. Trạm trưởng biên phòng Lý Mý Dình, khi ấy mới ba mươi tuổi, đã đưa tôi qua hơn 800 bậc đá lên đình cột cờ. Từ trên độ cao 1.470m so với mực nước biển, một vùng đất địa đầu bát ngát trong tầm mắt. Cột cờ sau khi tôn tạo năm 2010 có hình bát giác, cao 30m, mang dáng cột cờ Hà Nội, xung quanh 8 mặt chạm khắc hoạ tiết mặt trống đồng Đông Sơn và các biểu tượng minh họa các giai đoạn lịch sử của đất nước.
Lý Mý Dình người dân tộc Mông, gia đình gắn bó với vùng đất này qua nhiều đời. Vợ anh, Bùi Thị Hằng, là cô giáo người Kinh, từ Hưng Yên lên đây dạy học. Tình yêu của họ nảy nở trên mảnh đất này, trong cuộc xây dựng và bảo vệ vùng đất biên cương của Tổ quốc. Năm ấy, con gái đầu lòng của họ đã lên hai tuổi.
Lần này tôi trở lại, Lũng Cú đã có nhiều thay đổi. Khu vực xung quanh cột cờ được mở mang. Khách du lịch ngày một đông hơn. Hệ thống đường được nâng cấp. Một số công trình mới đang xây cất, trong đó có trường học mới không xa cột cờ. Một khu du lịch tâm linh khá đồ sộ đang được thi công... Lý Mỳ Dính, người sĩ quan biên phòng năm trước, đã chuyển công tác về đồn Phó Bảng. Qua điện thoại, Dính cho biết, vợ chồng anh có thêm một cháu trai. Cuộc sống của họ có thêm những niềm vui mới.
Chúng tôi lại có dịp gặp gỡ với các chiến sĩ biên phòng, hiểu thêm công việc của các anh trên mảnh đất cực Bắc này. Trò chuyện với thiếu tá Hà Văn Đô, chính trị viên Đồn biên phòng Lũng Cú, chúng tôi được biết: Nhiệm vụ của đồn trải rộng trên địa bàn các xã Lũng Cú và Ma Lé với 22 cột mốc, hàng chục ki lô mét biên giới. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh trên địa bàn trọng yếu này rất nặng nề.
Bên cạnh đó, việc xây dựng chính quyển cơ sở, giúp nhân dân phát triển sản xuất trên địa bàn với trên 8.000 dân thuộc 11 dân tộc cũng là một trách nhiệm lớn. Hà Văn Đô mới 37 tuổi, quê ở Vĩnh Phúc, nhiều năm bám trụ ở biên cương. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng Lũng Cú như anh. Họ từ nhiều miền quê lên đây, vượt mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Như nhiều điểm biên giới chúng tôi đã đi qua, một lớp cán bộ, chiến sĩ mới đã tiếp bước cha anh, đảm đương trách nhiệm giữ gìn biên cương Tổ quốc.
Bản Lô Lô Chải.
Từ cột cờ Lũng Cú, lẩn này chúng tôi đi tiếp lên điểm cực Bắc, điều mà mấy lần trước chưa có dịp thực hiện. Chúng tôi theo đường tuần tra biên giới chừng 4 km qua bản Xéo Lủng, đến mỏm đất cuối cùng. Đây là nơi có cột mốc, bia chủ quyền và đài vọng cảnh cực Bắc. Sông Nho Quế chảy qua điểm này giữa hai bên là vách núi cao. Con đường nhỏ ra lượn trên mép núi chênh vênh đến điểm cực có toạ độ 2322'59 vĩ độ Bắc; 10519'21 kinh độ Đông. Một ngày nắng rất đẹp, cái nắng biên cương bâng khuâng trên những nếp nhà nhỏ, con đường và bóng những người dân đang làm nương. Một cảm giác xao xuyến. Tổ quốc bắt đầu ngay nơi chúng tôi đứng. Máu xương bao thế hệ người Việt đã đổ cho sự toàn vẹn đất đai bờ cõi tổ tiên để lại. (Xin được nói thêm, đây cũng mà điểm cực cuối cùng trong số bốn điểm cực- cực Bắc, cực Nam, cực Tây và cực Đông mà tôi và nhà báo Ngô Hà Thái đã cùng nhau có mặt trong các chuyến đi đến mọi miền đất nước).
Bản Lô Lô Chải ngay dưới chân cột cờ Lũng Cú có một vẻ đẹp đặc sắc. Từ trên cao nhìn xuống, bản nằm giữa trập trùng núi đá, chìm ẩn trong mây như bức tranh thuỷ mặc. Chúng tôi đã vào thăm bản, đi trên những con đường nhỏ, ngắm nhìn những ngôi nhà lợp ngói âm dương, trình tường đất, mang đậm phong cách sống của người Lô.
Bản có 114 hộ với hơn 500 nhân khẩu này giờ được công nhận là làng văn hoá. Chúng tôi đến thăm nhà trưởng bản Sình Gì Gai, nhà đôi vợ chồng trẻ Dìu Di Thuế - Vàng Thị Mai, nhà ông bà Vàng Thị Đai - Dìu Dì Sâm... Qua câu chuyện, chúng tôi hiểu những thay đổi trong cuộc sống của bà con trong bản. Những năm gần đây, bên cạnh việc trồng trọt, chăn nuôi, dệt vải, bà con trong bản với sự giúp đỡ của nhà nước, đã học làm du lịch, mở mang các dịch vụ. Đến nay, bản Lô Lô Chải đã có 21 gia đình làm các homestay đón khách. Bà con học tiếng Anh để có thể giao tiếp với khách nước ngoài. Bản có đội văn nghệ với các tiết mục mang đậm bản sắc Lô Lô biểu diễn cho khách du lịch và tham dự các hội diễn các nơi. Đời sống, thu nhập của bà con nâng lên rõ rệt.
Quang cảnh bản Lô Lô Chải - Lũng Cú.
Trong các lễ hội, màn trình diễn của người dân Lô Lô Chải không thể thể thiếu các tiết mục biểu diễn trống đồng. Đấy là câu chuyện có cội nguồn lịch sử. Theo sử sách, hoàng đế Quang Trung đã cho đặt một chiếc trống lớn ở Lũng Cú để góp phần bảo vệ an ninh biên giới nơi mảnh đất địa đầu. Chính vì vậy người Lô Lô ở Lũng Cú đã biết sử dụng thành thạo những chiếc trống có nguồn gốc từ trống đồng Đông Sơn ấy. Công cuộc xây dựng và bảo vệ nước Việt ngàn năm từ lâu đã là một sự nghiệp chung của đồng bào tất cả các dân tộc qua nhiều thế hệ.
Liên quan đến câu chuyện nhiều ý nghĩa này, trong bài thơ Tiếng Trống Ở Lũng Cú, tôi viết :
Âm vang giữa đỉnh trời
Vách núi rung nhịp trống
Đá tiếp lời vang vọng
Lũng Cú bập bùng mây
Trống Mẹ và trống Cha
Trống Trời và trống Đất
Hồn vía người Lô Lô
Ngân lên theo tiếng nhạc
Và :
Trống gọi rồng thiêng đến
Muôn mạch đá về chầu
Cuộn thành giăng Ải Bắc
Từ lòng núi thẳm sâu
Trống của người giữ đất
Hoàng đế đã lệnh trao:
Thần dân hãy cảnh giác
Nơi xã tắc khởi đầu !
Lời người xưa lay động
Nhịp trống giục mê say
Muôn chỉ màu ngũ sắc
Hoà sắc trắng mây bay
Kỳ vĩ ngôi làng nằm cheo leo trên vách núi ở Pháp Rocamadour là một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Lot, vùng Midi-Pyrénées, phía Tây Nam nước Pháp. Ngôi làng nằm cheo veo bên vách núi, vỏn vẹn khoảng 650 dân sinh sống đã trở thành một trong điểm đến hút khách tại Pháp. Toàn cảnh ngôi làng Rocamadour trên vách núi. Ảnh: Nguyễn Tất Thịnh Rocamadour cách thủ đô Paris khoảng 550km về phía...