Mất ngư trường là không toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam
“Ngư trường ở vùngHoàng Sachủ yếu khai thác cá ngừ là chính. Hiện đây là vùng chủ quyền củaViệt Namvà ngành thủy sản xếp khu vực này thuộc vùng xa bờ (tính từ 110 kinh độ đông trở ra). Kiến nghị các cơ quan hữu trách tăng cường các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình vì đây là an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.
Ông Nguyễn Hoàng Minh, Giám đốc Trung tâm dự báo ngư trường khai thác hải sản trực thuộc Viện nghiên cứu hải sản, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chia sẻ với Đất Việt trước thông tin ngày 20/3/2013, một tàu cá của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi bị tàu Trung Quốc truy đuổi và nổ súng bắn cháy cabin tại khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Việc tàu Trung Quốc truy đuổi, bắn tàu cá của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi là vi phạm nghiêm trọng, vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đe dọa tính mạng và gây thiệt hại tài sản của ngư dân Việt Nam.
Theo ông Minh, việc Trung Quốc bắn phá tàu ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản của ngư dân Việt Nam. Khu vực Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của Việt Nam – nhất là đối với bà con ngư dân Quảng Ngãi.
“Bà con ngư dân thường khai thác ở phía Đông Hoàng Sa, mùa này cá ngừ tập trung rất nhiều. Do vậy kiến nghị các cơ quan hữu trách tăng cường các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình vì đây là an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”, ông Minh nói.
Trước đó các thông tin liên quan đến chính sách biển của Trung Quốc thể hiện nước này không chỉ để làm bá chủ đường giao thông trên mặt biển và chiếm đoạt nguồn hải sản trong lòng biển mà còn nhằm tóm thâu toàn bộ tài nguyên dầu khí dưới đáy biển.
Mưu đoạt tài nguyên Biển Đông
Báo chí Trung Quốc đưa từ tháng 5/2012 một giàn khoan dầu khổng lồ hoạt động ở vùng nước sâu đã được một xưởng đóng tàu ở Thượng Hải bàn giao cho Tập đoàn Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC). Theo ban lãnh đạo tập đoàn này, sau khi thử nghiệm, giàn khoan sẽ được đưa xuống Biển Đông để bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2011.
Giàn khoan nói trên có tên “Dầu khí Hải dương 981″ (CNOOC 981), trị giá khoảng 6 tỷ nhân dân tệ (900 triệu USD). Với kích thước rộng bằng một sân bóng đá, giàn khoan này có thể hoạt động ở độ sâu 3.000 mét, tức là gấp 6 lần năng lực các giàn khoan hiện tại của Trung Quốc. Độ khoan sâu nhất có thể đạt 12.000m.
Theo báo chí Trung Quốc, sự xuất hiện của hàng loạt công trình hải dương quan trọng, đạt trình độ tiên tiến thế giới này không chỉ giúp cho ngành dầu khí Trung Quốc tiến từ thềm lục địa ra biển sâu, tăng cường an ninh năng lượng, mà còn tạo điều kiện cho Trung Quốc giành quyền chủ động trong khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Video đang HOT
Hiện nay, nhiều giếng dầu lớn trong đất liền của Trung Quốc đã khai thác được hơn 30 năm và sắp rơi vào tình trạng giảm sút sản lượng. Vì thế, trọng điểm khai thác dầu khí tương lai của Trung Quốc là ngoài khơi. 10 năm lại đây, một nửa sản lượng dầu mỏ tăng của Trung Quốc đến từ biển. Năm 2010, tỷ lệ này đã lên tới gần 80%.
Liên quan đến việc xâm phạm chủ quyền trên biển Đông cùng với những yêu sách của Trung Quốc, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, hội Luật gia Việt Nam cho biết, tại cuộc hội thảo về biển Đông vừa tổ chức tại Mỹ trung tuần tháng 3, các luật gia tham gia hội thảo khẳng định rằng đối chiếu với các quy định của luật pháp quốc tế chung, cũng như Công ước Luật biển 1982 mà Trung Quốc là một quốc gia thành viên, hoàn toàn không có cơ sở để Trung Quốc yêu sách vùng biển ở Biển Đông dựa trên “đường chín đoạn”. Vì vậy, nếu Trung Quốc có ý định triển khai chủ trương gác tranh chấp, cùng khai thác tài nguyên dựa vào “đường chín đoạn”, các nước hữu quan khác ở Biển Đông sẽ không thể chấp nhận.
Bà Hà cũng khẳng định, Chính phủ Việt Nam ủng hộ duy trì hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác phát triển ở Biển Đông, giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển 1982.
Trên thực tế, Việt Nam đã và đang kiên trì tiến hành thương lượng với các nước hữu quan, đã đạt được những kết quả cụ thể như phân định vùng biển trong vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, phân định ranh giới thềm lục địa với Indonesia, thực hiện khai thác chung dầu khí tại khu vực thềm lục địa chồng lấn với Malaysia. Việt Nam đã ban hành Luật biển Việt Nam với những quy định hoàn toàn phù hợp với Công ước Luật biển 1982.
Các học giả Việt Nam đề nghị cộng đồng quốc tế ủng hộ mọi nỗ lực của các bên tranh chấp ở Biển Đông tìm kiếm giải pháp hòa bình, đồng thời khuyến khích các nước ASEAN và Trung Quốc tuân thủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông ký năm 2002 và triển khai việc soạn thảo và thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông.
Theo vietbao
'Philippines rất khôn ngoan khi kiện Trung Quốc'
"Đây là bài khôn ngoan của Philippines khi mọi giải pháp ngoại giao đã thất bại. Mục tiêu của họ là công khai hóa, thể hiện lẽ phải; còn Trung Quốc không tuân thủ luật pháp, không có chính nghĩa", thạc sĩ luật Nguyễn Hùng Cường phân tích.
- Ông đánh giá như thế nào về đơn kiện của Philippines khi mà Trung Quốc đã có bảo lưu không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào về tranh chấp trên biển khi trở thành thành viên của Công ước Luật biển 1982?
- Tòa án được Philippines gửi đơn kiện là tòa án trọng tài quốc tế được thành lập theo phụ lục VII của UNCLOS (arbitral tribunal). Ngày 25/8/2006, Trung Quốc đã có báo cáo gửi Liên Hợp Quốc đưa ra các tuyên bố bảo lưu theo Điều 298 của UNCLOS. Theo các bảo lưu này Trung Quốc có quyền không chấp nhận bất kỳ biện pháp giải quyết tranh chấp nào theo quy định tại điều 287, bao gồm 4 phương pháp: một là Tòa án công lý của Liên hợp quốc, hai là Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS), ba là Tòa án trọng tài và bốn là Tòa án trọng tài đặc biệt (giải quyết các tranh chấp liên quan tới đánh bắt hải sản, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển hoặc nghiên cứu khoa học biển) đối với tất cả các loại tranh chấp được quy định tại điểm a,b,c Khoản 1 Điều 298.
Một số người, đặc biệt là một số học giả Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc có thể từ chối thẩm quyền của Tòa án trọng tài và tòa án này không đủ thẩm quyền thụ lý đơn kiện vì Trung Quốc đã có văn bản bảo lưu này. Philippines khi đưa ra đơn kiện cũng biết rất rõ điều này. Tuy nhiên, phải xem xét kỹ các quy định tại điều khoản về quyền bảo lưu này có thể tạo thành chiếc khiên bảo vệ cho Trung Quốc trong mọi trường hợp hay không.
Thạc sĩ Nguyễn Hùng Cường (khoa Luật, ĐHQG Hà Nội) cho rằng Philippines đã lách qua một khe cửa hẹp, không đề cập tới các vấn đề mà Trung Quốc bảo lưu. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 298các bảo lưu này chỉ áp dụng đối với những vấn đề liên quan đến các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 tức là liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển (bao gồm hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia có đường bờ biển kề nhau hay đối diện nhau) hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử.
Philippines hiểu rõ điều này và họ rất khôn ngoan khi đưa ra đơn kiện của mình. Trong đơn kiện, Philippines không đưa ra các vấn đề hoạch định ranh giới các vùng biển nêu trên mà đưa các vấn đề sau: Một, đề nghị tòa trọng tài đưa ra phán quyết xác nhận đường ranh giới 9 đoạn (đường chữ U, đường lưỡi bò) là vi phạm UNCLOS 1982. Hai, việc Trung Quốc xây dựng công trình trên các bãi, vỉa đá ngầm trong phạm vi 200 hải lý của Philippines đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Phi trên thềm lục địa hay không. Ba, các luật nội địa Trung Quốc đưa ra (như cấm đánh bắt hải sản hàng năm) trên Biển Đông đã vi phạm UNCLOS. Bốn, việc Trung Quốc đã cản trở Philippines thực thi quyền lợi trong các vùng biển của mình cũng như ở các bãi, vỉa đá ngầm và vùng biển xung quanh đã vi phạm UNCLOS.
Hơn nữa, các bảo lưu tại điểm a,b,c khoản 1 Điều 298 UNCLOS chỉ áp dụng với các tranh chấp giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện. Rõ rằng Phillippines và Trung Quốc không phải là những quốc gia như vậy.
Philippines đã rất khôn ngoan khi lách qua một khe cửa hẹp, không đề cập tới các vấn đề mà Trung Quốc bảo lưu. Trên cơ sở các nghiên cứu của chúng tôi, tôi cho rằng tòa trọng tài có cơ sở để xác định thẩm quyền giải quyết những vấn đề mà Philippines đưa ra.
- Theo ông, diễn biến tiếp theo của vụ kiện là gì?
- Trước hết là về thủ tục trọng tài, mỗi bên sẽ chọn một tài viên cho mình từ danh sách trọng tài viên do Tổng Thư ký Liên hợp quốc lập ra. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, Tòa Trọng tài sẽ có 5 thành viên. Philippines sẽ cử một người là trọng tài từ danh sách do mình chọn. Sau đó, Trung Quốc sẽ có 30 ngày để đưa ra trọng tài của mình kể từ ngày Philippines gửi Thông báo khởi kiện cho Trung Quốc. Ba trọng tài còn lại sẽ do các bên thỏa thuận cử ra và công dân nước khác trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số ba trọng tài đó.
Như vậy, trong trường hợp Trung Quốc không đồng ý với thẩm quyền của Tòa trọng tài, thì tòa trọng tài vẫn được thành lập và trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo khởi kiện của Philippines nếu Trung Quốc không chọn trọng tài cho mình thì Trung Quốc mất quyền lợi, phần thiệt sẽ thuộc về Trung Quốc.
- Trong trường hợp tòa đưa được phán quyết và giả sử những điều Philippines là đúng thì hiệu lực của phán quyết này ra sao?
- Nhìn xa hơn câu chuyện (thông thường thủ tục trọng tài sẽ mất 3-4 năm), giả sử tòa trọng tài đưa ra phán quyết đường chữ U, luật nội địa của Trung Quốc vi phạm luật quốc tế... thì hiệu lực phán quyết như thế nào? Có bác bỏ được Trung Quốc từ đó trở đi không được đưa ra đường chữ U nữa hay không?
Thực tế phán quyết đó không cấm được Trung Quốc tiếp tục thực thi các hành động vi phạm đó vì phán quyết của Tòa trọng tài không hề có biện pháp đảm bảo thực thi. Trong trường hợp có tranh chấp về vấn đề thi hành án thì theo UNCLOS, các bên có quyền đưa ra Tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết để quyết định tuy nhiên điều đó không đảm bảo vấn đề thực thi phán quyết của Tòa. Dưới góc độ luật quốc tế hiện nay duy nhất chỉ có phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế mới có HĐBA Liên hợp quốc đứng ra bảo đảm thực thi.
Các nhà chiến lược của Phillippines chắc chắn cũng nhìn ra câu chuyện này, vì thế, cái họ hướng tới có lẽ không phải là hiệu lực của phán quyết. Mục tiêu của họ là công khai hóa mọi thứ, thể hiện họ là người đúng, là người có lẽ phải; còn Trung Quốc, ông là nước lớn nhưng không tuân thủ luật pháp, không có chính nghĩa.
Trung Quốc chắc chắn sẽ phải cân nhắc giữa hình ảnh của mình và những lợi ích đạt được khi làm sai, cái gì lớn hơn? Giữ hay hi sinh hình ảnh đó để chiếm lấy lợi ích từ các đảo, bãi đá ngầm? Với chủ trương "trỗi dậy hòa bình", tư tưởng nước lớn muốn lãnh đạo thế giới, tôi nghĩ Trung Quốc sẽ phải cân nhắc rất kỹ nếu muốn tiếp tục thực hiện những hành vi sai trái này.
- Dưới góc độ ngoại giao, hành động của Philippines nói lên điều gì?
- Trong trường hợp này, đơn kiện của Phillippines mang lại một hệ quả rất thú vị: "quốc tế hóa vấn đề Biển Đông". Từ trước tới nay, Trung Quốc vô cùng sợ điều này. Với lợi thế của "gã khổng lồ", Trung Quốc luôn muốn dùng đàm phán song phương để "bẻ gãy từng chiếc đũa". Đương nhiên khi Phillippines khởi kiện, dù chưa nói tới thắng hay thua, thì mọi người sẽ nhìn vào, nơi chàng David nhỏ bé chiến đấu với gã khổng lồ Goliat. Cả thế giới sẽ quan tâm, nhìn vào, báo chí đưa tin um xùm và người ta sẽ đón chờ phản ứng của Trung Quốc. Trung Quốc, với tư cách là một ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an, với sức mạnh của nền kinh tế thứ hai thế giới, họ sẽ chứng tỏ gì?
Là một nước lớn, chỉ riêng việc Trung Quốc từ chối ra tòa đã thể hiện cái lý của Trung Quốc có vấn đề. Một nước nhỏ kiện, lý do gì ông không tham gia, trong khi đây là một biện pháp giải quyết hòa bình. Như thế hình ảnh của Trung Quốc trước dư luận sẽ không đẹp chút nào. Đấy là bài rất khôn ngoan của Philippines trong hoàn cảnh mọi giải pháp ngoại giao đã thất bại, và nói như ngoại trưởng của nước này, Rosario, "sự kiên nhẫn đã cạn kiệt".
Tất nhiên, câu chuyện sẽ dẫn tới vấn đề Trung Quốc trả đũa như họ từng làm thông qua con đường kinh tế và gây thiệt hại không nhỏ cho Philippines. Nhưng như Tổng thống Philippines Aquino đã nói, họ vô cùng quyết liệt, họ không đánh đổi vấn đề kinh tế để nhân nhượng về chủ quyền. Và đương nhiên Trung Quốc hiểu rằng đây là một hòn đá tảng, một đối thủ không dễ nuốt.
- Vụ kiện của Philippines sẽ đem lại bài học gì cho ASEAN và Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp ở biển Đông?
- Gần như mọi quốc gia trên thế giới đều có tâm lý e ngại Trung Quốc, không biết Trung Quốc nghĩ gì bởi Trung Quốc luôn nói một đằng, làm một nẻo. Từ năm 2009 tới nay, đối với Việt Nam, ASEAN và các nước khác, Trung Quốc luôn nói tới hòa bình hữu nghị, hợp tác lâu dài, không muốn làm phức tạp thêm tình hình... nhưng bản thân Trung Quốc luôn làm phức tạp thêm tình hình. Nào là cắt dây cáp, mời thầu dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đơn phương đưa các lệnh đánh bắt cá...
Giống như chuỗi domino, mọi người sẽ nghĩ đến khả năng, nếu Philippines làm vậy, có thể Việt Nam, Malaysia cũng sẽ làm. Rõ ràng tuyên bố đường chữ U vi phạm UNCLOS thì bất cứ nước nào là thành viên công ước cũng có thể làm. Chẳng hạn như Canada, ở rất xa Biển Đông, có thể kiện lên tòa trọng tài rằng Trung Quốc vi phạm. Nhưng Canada có làm thế không khi họ phải tính tới lợi ích của họ?
Câu chuyện này là một thách thức cho ASEAN, cho thấy sự đoàn kết, cơ chế hợp tác của ASEAN thực tế là lỏng lẻo. Tôi nghĩ rằng, tới đây, cả khối sẽ phải nhìn lại cơ chế đó đã đủ để bảo vệ các thành viên của mình hay chưa? Có thể, nó sẽ thúc đẩy ASEAN cùng ngồi lại với nhau tìm ra một cơ chế hữu hiệu, hoàn hảo hơn.
Còn đối vớiViệt Nam, Bộ Ngoại giao đã lên tiếng về vụ việc. Cá nhân tôi cho rằng, chúng ta phải thể hiện quan điểm rõ ràng, mạnh mẽ trong vụ việc này vì những vấn đề mà Philippines phản đối cũng là việc chúng ta đang phản đối, lợi ích mà nước này đang bảo vệ cũng chính là lợi ích của chúng ta.
Theo VNE
Trục vớt tàu cá, không thấy thi thể 13 người mất tích Tối 2-1, lực lượng cứu hộ, cứu nạn và người dân Cồn Sẻ, Bộ đội Biên phòng Quảng Bình đã trục vớt thành công và lai dắt chiếc tàu cá bị đắm hôm 30-12-2012 khiến 13 ngư dân mất tích vào bờ. Chiếc tàu cá mang số hiệu QB 93714TS đã được trục vớt và lai dắt về thôn Cồn Sẻ, xã Quảng...