Mắt mộng thịt, nên đi khám sớm
Tôi giữ vệ sinh mắt rất kỹ, thường xuyên nhỏ thuốc mắt nhưng vì sao vẫn bị mộng thịt? Việc điều trị như thế nào thưa bác sĩ?
- Mộng thịt là khối mô liên kết xuất hiện từ góc trong khóe mắt và xâm lấn dần vào giác mạc. Bệnh có thể tiến triển chậm trong nhiều năm hoặc tiến triển rất nhanh xâm lấn qua vùng rìa giác mạc và tiến vào vùng trung tâm giác mạc (đồng tử) làm giảm thị lực. Phần mộng thịt nhô lên có thể phá hủy màng phim nước mắt gây cảm giác kích thích, xốn cộm, chảy nước mắt sống và tổn thương biểu mô giác mạc.
* Tại sao mắt bị mộng thịt?
- Khi ra nắng, kết mạc mắt phơi trần ra dưới ánh sáng mặt trời, bức xạ của tia tử ngoại sẽ dẫn đến sự khiếm khuyết các tế bào mầm tại chỗ, mà các tế bào này hoạt động như một rào chắn ở vùng rìa kết mạc và giác mạc. Khi rào chắn bị phá hủy có thể gây mộng thịt.
* Điều trị ra sao?
Video đang HOT
- Hiệu quả nhất là phẫu thuật. Với các phương pháp mổ cũ như cắt mộng, để hở củng mạc, di chuyển hướng đi của đầu mộng, ghép mộng kết hợp với áp tia beta và nhỏ Mitomycin sau phẫu thuật… kết quả hạn chế vì bị tái phát rất cao. Một khi đã mọc lại thì bao giờ mộng thịt cũng tiến triển nhanh và khó điều trị hơn nguyên phát.
Phương pháp mổ bằng cách ghép kết mạc rời tự thân có tỉ lệ tái phát rất ít, không gây ra những biến chứng trầm trọng như thủng củng mạc, hoại tử củng mạc, loét giác mạc, loại miếng ghép… như một số phương pháp khác.
* Mộng thịt phát triển đến mức độ nào thì nên mổ?
- Việc phân loại độ mộng thit phải do bác sĩ. Mổ khi mộng thịt ở các độ II, III (mộng thịt xâm lấn vào giác mạc khoảng bằng hoặc trên 2mm), độ IV (lấn vào đồng tử). Phẫu thuật đơn giản, sau mổ bệnh nhân có thể ra về, tái khám theo dõi sau môt tuần, môt tháng, ba tháng, sau tháng và 12 tháng.
Để phòng bệnh, khi ra nắng nên đeo kính râm có chống tia UV bảo vệ mắt. Nếu thường xuyên bị đỏ khóe mắt góc trong, cảm giác xốn cộm và chảy nước mắt sống mà chữa hoài không khỏi thì nên đi khám mắt vì đây là biểu hiện mộng thịt bắt đầu. Ngoài ra bệnh nhân không nên tự mua thuốc nhỏ mắt và dùng lâu dài. Không đắp lá cây – kể cả các lá chữa bệnh mắt theo dân gian như lá sống đời, nha đam… Đã có trường hợp bị sán trên lá chui vào mắt do rửa lá không sạch.
Theo VNE
Sinh mổ - nên hay không?
Hiện nay, nhiều sản phụ chọn cách sinh mổ vì sợ đau đẻ. Tuy nhiên, theo các bác sĩ, sinh thường mới là "giải pháp tối ưu" cho cả mẹ và bé.
Sinh mổ khi nào?
Các bác sĩ sẽ chỉ định sinh mổ trong trường hợp sản phụ gặp những vấn đề không thể sinh thường như: khung chậu hẹp, bất tương xứng giữa đầu thai với khung chậu vì em bé quá to khoảng trên 4kg (đầu thai lớn hơn khung chậu sản phụ), mẹ mắc bệnh tim mạch, không đủ sức rặn hoặc tử cung không gò được để đẩy thai ra ngoài và biện pháp giục sinh đã thất bại... Ngoài ra, còn có trường hợp sinh khó buộc phải mổ: ngôi thai xoay ở tư thế bất thường ở cuối kì (ngôi mông, ngôi ngang...) nếu không phẫu thuật sẽ nguy hiểm cho mẹ và bé; hoặc thai suy khi đang chuyển dạ, nước ối không tốt... bác sĩ cũng sẽ quyết định cho sinh mổ để bảo đảm an toàn cho mẹ và bé.
Những nguy cơ của sinh mổ
Hiện không ít người mẹ quyết định phương pháp sinh mổ để chọn "ngày đẹp, giờ vàng" cho bé ra đời hoặc vì lý do sợ đau, sợ bị giãn â.m đ.ạo khi sinh thường. Tuy nhiên, người mẹ phải hết sức thận trọng vì biện pháp sinh này có thể đưa lại những nguy cơ như:
- Sinh mổ sẽ tránh cho người mẹ những cơn đau khi chuyển dạ, tuy nhiên, những thủ thuật sau đó lại khiến người mẹ bị đau hơn nhiều.
- Những nguy cơ khi sinh mổ như: tai biến khi gây tê, vết mổ bị rách, c.hảy m.áu, tổn thương đường tiết niệu, n.hiễm t.rùng, băng huyết... đe dọa trực tiếp đến sức khỏe người mẹ. Đặc biệt, n.hiễm t.rùng mổ có khả năng gây hoại tử cổ tử cung. Nguy hiểm hơn, sinh mổ còn khiến người mẹ có thể bị tắc ruột, tắc ống dẫn trứng, gây vô sinh thứ phát.
Ngoài ra, sinh mổ cũng buộc người mẹ phải dùng kháng sinh trong khoảng thời gian cho bé bú sau đó. Điều này sẽ khiến chất lượng sữa của mẹ giảm sút, thậm chí còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bé. Những bé sinh mổ có nguy cơ suy yếu hệ miễn dịch và hô hấp lớn hơn nhóm bé được sinh thường.
Sau mổ bao lâu có thể mang thai lại?
Những người đã sinh mổ là trường hợp gặp những vấn đề không thể sinh thường nên lần sinh sau thường cũng phải áp dụng biện pháp sinh mổ. Trong lần sinh sau bác sĩ vẫn sẽ thao tác trên vết mổ cũ nên nếu khoảng cách giữa hai lần sinh quá gần vết khâu sẽ không an toàn (rách, bung đường khâu...) hoặc thai to cũng sẽ làm rách, bục vết khâu của lần sinh trước. Đồng thời, các cơ quan nội tạng sẽ bị tác động tiếp tục và làm gia tăng khả năng dính ruột, rất nguy hiểm. Những sản phụ phải sinh mổ chỉ nên sinh tối đa là 2 lần, khoảng cách giữa hai lần sinh là 5 năm để không ảnh hưởng đến sức khoẻ. Trong khoảng từ 2 - 3 năm, nếu bị "nhỡ" thì có thể giữ lại nhưng để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và con cần được các bác sĩ chuyên khoa theo dõi chặt chẽ.
Hiện nay, các bệnh viện cũng đang triển khai thực hiện giải pháp "đẻ không đau". Thực chất đây chỉ là giảm đau sản khoa bằng cách tiêm thuốc tê vào các khe trống giữa các đường dẫn tủy trong cột sống. Lúc này, sản phụ vẫn hoàn toàn tỉnh táo vì thuốc chỉ lan đến các dây thần kinh phía dưới cơ thể nên làm giảm cảm giác đau vùng này. Thai phụ chỉ có cảm giác đau nhẹ đủ để tạo sức rặn giúp tử cung gò đẩy thai ra ngoài. Phương pháp này cũng giúp các thai phụ giảm bớt cảm giác sợ những cơn đau đẻ.
Sinh thường bao giờ cũng tốt nhất cho cả mẹ và bé, nên trong những trường hợp không bắt buộc phải can thiệp phẫu thuật, bác sĩ vẫn khuyên các sản phụ nên chọn biện pháp sinh thường.
Theo VNE
Khi nào nên cho trẻ ăn cháo Con tôi được 7,5 tháng, nặng 7,8 kg. Tôi chưa cho cháu ăn cháo mà chỉ ăn bột mua sẵn. Tôi đợi cháu được 8 tháng mới ăn cháo vì sợ ăn sớm hư hệ tiêu hóa của cháu. Tuy nhiên, nhiều người bảo tôi nên cho bé ăn cháo. Cho tôi hỏi cách tôi làm có đúng không? Cảm ơn bác sĩ....