Mai một nghề đan võng ngô đồng ở xứ Cù lao
Đã có thời nghề đan võng ngô đồng rất được thịnh hành nhưng rồi giờ đây, khi mà những giá trị của cuộc sống có nhiều đổi thay, những chiếc võng ngô đồng nổi tiếng ngày nào giờ chỉ còn trong những câu chuyện kể.
Bà Quy bên chiếc võng ngô đồng đang đan dở
Mai một nghề đan võng ngô đồng
Ở đất đảo Cù Lao Chàm ( xã đảo Tân Hiệp, Hội An, Quảng Nam), lâu nay cây ngô đồng được xem như là một biểu tượng của đất đảo này. Tháng 6 cho đến tháng 8, cây ngô đồng trổ hoa đẹp khi trên cành đã trút hết lá. Khi ánh nắng chiếu xuống, cả sườn núi là từng vệt màu đỏ tươi rực rỡ đẹp đến mê mẩn.
Buổi chiều ở cù lao, bà lão Nguyễn Thị Quy (thôn Bãi Ông) vẫn cần mẫn chuốt từng sợi xơ để đan chiếc võng dở dang. Trong căn nhà nhỏ, người phụ nữ tóc bạc ngồi tỉ mẩn, đôi tay già nua ám đồi mồi nhưng thoăn thoắt từng mắt võng hiện ra.
Mấy chục năm qua, bà Quy vẫn cần mẫn với từng chiếc võng ngô đồng
Bà Quy thủ thỉ, võng ngô đồng từng được xem như một biểu tượng đặc trưng của người dân xứ đảo này. Đã có thời nghề đan võng ngô đồng rất được thịnh hành, nhưng hiện tại cuộc sống có nhiều đổi thay thì những chiếc võng ngô đồng nổi tiếng ngày nào giờ chỉ còn trong những câu chuyện kể, mà có đâu xa lắm, chỉ chừng mươi năm trước thôi.
Võng ngô đồng không phải là thứ võng thông thường, nó độc đáo ở chỗ được làm từ sợi của thân cây ngô đồng (một loài cây chỉ mọc ở trên những mỏm núi cao, hay vách đá cheo leo). Mặc cho nắng, gió, bão biển rễ cây vẫn bám chặt vào đá, thân cây luôn dẻo dai, vươn thẳng mình như thách thức với sự khắc nghiệt của đại dương. Ngô đồng ngoài những tác dụng về y học còn là một loài cây đẹp và không kém phần lãng mạn. Khoảng từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9, khi gió đảo đã trút đi hết những chiếc lá cuối cùng để lại trơ trọi cành, cũng là lúc cây đâm chồi, nở rực một màu hoa đỏ ngập tràn Cù Lao.
Bà Quy bảo, đời ông cha bà đã phát hiện ra những đặc tính có một không hai của loài cây đặc biệt trên đảo này, để sử dụng khi đan gùi, võng, làm dây thừng và nhiều thứ vật liệu khác. Nhìn chiếc võng trên tay bà Quy, dấu vết của thời gian đã in hằn trên những mắt võng, trên từng thớ sợi.
Video đang HOT
Bà Quy chia sẻ: “Để làm ra một chiếc võng ngô đồng phải mất chừng ba tháng ròng rã. Phải lấy sợi từ trên núi, nơi những thân cây ngô đồng to chừng bắp chân người. Sau đó dùng búa đập nát theo thớ của thân cây, rồi đem ngâm trong nước tù của ruộng chừng 7 ngày, cho lớp vỏ cứng mềm mục, nhả dần ra, lộ sợi xơ thì đem vớt lên. Tiếp tục dùng tay tước lớp vỏ cứng đã mục lấy lớp xơ màu trắng đục, đem giặt sạch bằng nước suối trong rồi đem ra phơi nắng thật khô, đến khi chuyển thành màu trắng ngà tinh mới, có độ óng là lúc xơ đã sẵn sàng để đan võng. Người đan không những khéo léo mà còn phải kiên trì, bền bỉ. Khi đan võng tuyệt đối không được đan lỗi, vì khi đã bị lỗi thì không gỡ ra được nữa…”.
Võng ngô đồng từng một thời nổ tiếng ở xứ đảo này
Bà Quy chia sẻ, đan võng là một công việc rất công phu, đầy tỉ mẩn và rất mất thời gian. Công việc chỉ dành cho những người có tính cần cù, kiên nhẫn nhất mới chịu được.
Lòng người đan võng
Cách đây chừng mươi năm, trên đảo vẫn còn vài người đan võng ngô đồng như cụ Nguyễn Thị Muôn, bà Mai Thị Rài (con gái của cụ Môn), bà Quy, cùng một vài người khác. Chừng ấy cũng đủ để người dân xã đảo cảm thấy tự hào với cái nghề một đời của mình. Nhưng bây giờ, số người đan võng trên đảo chắc chỉ còn đôi ba người.
Trong câu chuyện thân tình với một gã trai trẻ từ phương xa đến, bà Quy với mái tóc đã phai màu theo sương gió đời người kể với tôi câu chuyện cuộc đời, gắn với những chiếc võng mấy chục năm qua. Mặc dầu đã ở cái tuổi tri thiên mệnh và qua biết bao gian khó của cuộc đời, nhưng bà vẫn ngày ngày giữ công việc đặc biệt có một không hai trên đảo và trên cả dải đất miền Trung khắc khổ này.
Bà Quy, chiếc võng ngô đồng, tấm ảnh và nỗi niềm khó tỏ
Cứ thế, bây giờ bà trút những nỗi niềm vào những chiếc võng ngô đồng. Có những ngày từ sáng sớm tinh mơ đến khi mặt trời gác mái, bà lặn lội lên rừng, trèo qua từng vách núi, níu vào những thân cây gai góc để chặt và gùi những nhánh cây ngô đồng về đan võng. Cho đến tận bây giờ, bà Quy chẳng nhớ nổi mình đã đan bao nhiêu chiếc võng trong đời, đã bán cho bao nhiêu người. Nhưng có điều sản phẩm của bà, cũng như của những người phụ nữ xứ đảo này đã để lại ấn tượng tốt đẹp đối với du khách khi đến với đảo Cù Lao.
Điều làm bà Quy và những người tâm huyết với võng ngô đồng, với cái nghề đan võng có một không hai này trăn trở không phải sự vất vả, cực nhọc khi làm võng, mà họ sợ một ngày nào đó cái nghề độc đáo này sẽ biến mất. Bởi cho đến tận lúc này, nhiều người chẳng còn ham đan võng để gìn giữ cái nghề này.
Bà Quy bảo, bà có 8 người con, trong đó có cô con gái cũng được bà truyền nghề, nhưng chỉ được một vài năm rồi thôi, bởi không đủ kiên nhẫn để chịu nổi sự công phu, tỉ mỉ, kiên nhẫn và ít hiệu quả kinh tế như nghề đan võng này. Mặc dù theo lời bà Quy thì giá thành của mỗi chiếc võng hiện tại không dưới 5 triệu đồng một chiếc, võng đan không đủ để bán. Có người đến mua võng, đặt tiền trước rồi một năm sau mới nhận được hàng.
Hiện tại trong nhà bà Quy đang còn giữ 2 chiếc võng đặt hàng của du khách nước ngoài mà họ chưa đến lấy, nhiều người khách khác khi thấy có sẵn những chiếc võng đan xong rồi, trả giá gấp đôi, gấp ba lần bình thường để lấy võng đi nhưng không được cụ Môn đồng ý. Bởi theo cụ, làm gì cũng phải có chữ tín mới được.
Người dân trên đảo Cù Lao Chàm bây giờ không mấy ai mặn mà với nghề đan võng này nữa. Bởi cù lao giờ là điểm du lịch phát triển. Những người phụ nữ có thêm nghề bán đồ lưu niệm hoặc kinh doanh hàng quán, đàn ông trai tráng thì đi biển, chạy xe thồ chở khách, làm hướng dẫn viên…, thế nên chẳng còn ai ngày ngày lên núi chặt ngô đồng về đan võng nữa.
Cây ngô đồng, nguyên liệu để đan võng ngô đồng
Ông Huỳnh Giang, nguyên Trưởng thôn Bãi Ông cũng ngậm ngùi: “Nghề “độc” nhưng chẳng còn mấy ai làm được nữa. Trên đảo này ngày trước cũng tổ chức cho chị em học nghề, nhưng chẳng ai theo nổi vì quá cầu kỳ, quá tỉ mỉ!”.
Chiều trên xứ đảo bên hiên nhà đầy nắng chiều, bà Quy vẫn cặm cụi, tỉ mỉ trau chuốt và đan từng mắt võng. Năm nay bà đã 78 tuổi…
Theo báo thời đại
Một ngày thương nhớ với cù lao
Trải qua biết bao biến thiên của lịch sử, của đời người, bay giờ cuộc sống trên đảo đã có nhiều đổi thay đến ngỡ ngàng. Cù Lao Chàm bây giờ đã trở thành thiên đường du lịch của Miền Trung.
Cầu tầu đảo Cù Lao Chàm, nơi vận chuyển hàng hóa và nhu yếu phẩm ra đảo
Cù lao Chàm là một cụm đảo thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách bờ biển Cửa Đại 15 km và đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Rời bến cảng Cửa Đại (Hội An), nếu đi cano cao tốc thì chỉ mất vài chục phút là đến được với thiên đường du lịch ở miền Trung này. Nếu đi tàu chợ sẽ mất hơn 1 tiếng rưỡi để đến vùng đảo này. Nói là tàu chợ nhưng thật ra đó là những tàu đánh cá của ngư dân đã được sửa sang lại để phục vụ du lịch cũng như vận chuyển hàng hóa và hành khách.
Một góc chợ bán hải sản trên đảo
Cầu tàu khá rộng để có thể đón nhiều chuyến tàu cặp bến cùng lúc. Những nụ cười và không biết bao nhiêu lời hỏi thăm với những người khách đến từ đất liền từ cư dân trên đảo. Cuộc sống của cư dân nơi đây cũng không khác gì trong đất liền, cũng có những nhà hang rộng rãi, những quán cà phê nhạc xập xình, chợ búa bán đủ loại nhưng nhiều nhất vẫn là các loài hải sản như bào ngư, tôm cá, mực một nắng và ốc vú nàng là hai thứ đặc sản của đảo không nơi nào sánh được. Ngoại trừ những thứ hải sản, các loại mặt hàng khác có giá cao hơn so với đất liền bởi khoảng cách biển trời nhưng không đến nỗi quá đắt đỏ.
Hiện tại dân số trên hòn đảo này khoảng hơn 3.000 người, lượng khách du lịch đến đây mỗi ngày cũng ước chừng cả ngàn người. Trong khi đó 98% tập trung ở bãi làng, nơi có cầu cảng, số còn lại sống rải rác trên các bãi khác phục vụ du lịch.
Những ngôi nhà mới khang trang dựng ngay trên đất đảo
Một người đàn ông hồ hởi khoe về hòn đảo được gọi là thiên đường du lịch này. Ông cho biết, nghề chính trên đảo chỉ là đi biển và làm du lịch. Với người dân Cù Lao Chàm này, thì làm du lịch là nghề thuộc hàng "cung đình" so với nghề đi biển, nhưng cũng chỉ mới ngót nghét chục năm trở lại đây thôi, còn trước đó, từ người già đến trẻ con đều lấy mũi tàu làm hướng mưu sinh.
Cuộc sống của cư dân trên đảo Cù Lao Chàm bây giờ đã đổi khác rất nhiều sau khi làn sóng du lịch biển đảo đổ về đây khoảng 10 năm trởi lại. Nhưng ngôi nhà hai tầng, ba tầng mọc lên san sát, điện lưới quốc gia đã về từ lâu, truyền hình cáp được khá nhiều hộ dân sử dụng. Trên đảo có trường học để trẻ em trên đảo đến lớp và rất nhiều khối cơ sở vật chất được xây dựng phục vụ đời sống người dân cũng như phát triển du lịch.
Mực một nắng, đặc sản hiếm có của Cù Lao Chàm
Trên đảo còn có một chiếc giếng cổ của người Chăm được xây dựng cách đây gần chục thế kỷ, nước vẫn trong và mát ngọt như thuở nào mặc cho dấu vết của thời gian đã làm rêu phong bờ giếng. Cùng với đó, tiếng chuông vang lên đều đều từ ngôi chùa Hải Tạng cổ cách đó không xa kích thích nhiều người tìm đến.
Trên những con đường đã được bê tông hóa, đồn biên phòng Cù Lao Chàm nằm thấp tháng trong bóng rừng cây. Mặc dù cũng là lính đảo, nhưng cuộc sống của các chiến sỹ biên phòng nơi đây không đến nỗi quá gian khổ so với Trường Sa hay những đảo xa khác. Nhưng không vì thế mà các anh lơ là nhiệm vụ dù chỉ một giờ một phút.
Đêm cù lao yên bình, chỉ có những tiếng sóng vỗ dạt dào vào các ghềnh đá, như tiếng ru của biển tự ngàn xưa. Các đảo thu mình lại trong giấc ngủ sau một ngày chào đón khách. Xa xa, ánh sáng của những chiếc thuyền câu mực ban đêm lóng lánh như những đàn đom đóm lập lòe giữa đêm biển đen đặc.
thoidai.com.vn
Lính trẻ trên đảo tiền tiêu... Sát cánh với người dân Đảo Cù Lao Chàm, các chiến sĩ biên phòng đang ngày đêm giữ vững sự bình yên cho hòn đảo tiền tiêu này. Lính biên phòng Đồn biên phòng Cù Lao Chàm đi tuần tra Xuất phát từ cảng Cửa Đại, sau hơn 20 phút đi bằng tàu cao tốc, chúng tôi đã đến được đảo tiền tiêu...