Mắc bệnh bạch hầu có thể khiến bệnh nhân tử vong trong vòng 6-10 ngày
Bạch hầu là căn bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có thể làm bệnh nhân tử vong trong vòng 6 – 10 ngày.
Mới đây, Bộ Y tế đã ghi nhận 32 ca nhiễm/nghi ngờ nhiễm ở Mèo Vạc, Hà Giang, trong đó, 2 trường hợp bệnh diễn biến nặng và tử vong. Vậy người dân cần phải làm gì để phòng ngừa hiệu quả căn bệnh nguy hiểm này?
Theo ĐDCKI Hà Thị Thanh Hoa, Khoa Dự phòng và Kiểm soát nhiễm khuẩn, bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
Thời gian ủ bệnh và phương thức lây truyền
Ổ chứa vi khuẩn nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.
Thời gian ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày, có thể lâu hơn. Thời kỳ lây truyền bệnh thường không cố định, có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, ít nhất là trên 4 tuần. Người bệnh đã có thể đào thải vi vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, hoặc cũng có thể từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3, 4 tuần; hiếm có trường hợp mang vi khuẩn mạn tính kéo dài trên 6 tháng.
Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây bằng việc tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết từ người bệnh.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch hầu
Bất cứ độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh. Tuy nhiên, vẫn có một số nhóm đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác, như:
- Trẻ lớn và người lớn tiếp xúc với bệnh nhân mắc/nghi ngờ mắc bệnh Bạch hầu hoặc sống tại các khu vực nguy cơ cao.
- Trẻ em và người lớn chưa được tiêm vắc xin phòng bệnh bạch hầu theo lịch hoặc tiêm phòng bạch hầu chưa đầy đủ:
0 – 2 tuổi: tiêm 4 mũi 5-trong-1 hoặc 6-trong-1 giúp phòng ngừa các bệnh nguy hiểm trong đó có Bạch hầu
Video đang HOT
4 – 6 tuổi: tiêm 1 mũi tiêm nhắc tiền học đường
9 – 17 tuổi: tiêm 1 mũi tiêm nhắc tuổi thanh thiếu niên
Người lớn: tiêm nhắc lại mỗi 10 năm sau đó để duy trì hệ miễn dịch, bảo vệ tối ưu.
- Người đi du lịch đến vùng dịch tễ.
- Những người sống trong điều kiện đông đúc, mất vệ sinh.
- Trẻ em dưới 15 tuổi chưa có miễn dịch.
- Trẻ sơ sinh có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không dễ mắc bệnh. Tuy nhiên, miễn dịch thụ động sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng – 1 tuổi. Nếu không được tiêm vắc xin, trẻ có nguy cơ mắc bệnh cao.
- Những người suy giảm miễn dịch rất dễ mắc bệnh và có tỷ lệ tái nhiễm bệnh.
Dấu hiệu và triệu chứng nhận biết
Tùy vào vị trí vi khuẩn gây bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau.
Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy ra chất mủ nhầy đôi khi có máu, có màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu họng và amidan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2, 3 ngày xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nếu không được điều trị tích cực, những bệnh nhân này có thể tử vong trong vòng 6 đến 10 ngày.
Bạch hầu thanh quản: Là thể bệnh tiến triển nhanh và nguy hiểm. Bệnh nhân có dấu hiệu sốt nhẹ, khàn tiếng, ho, các giả mạc tại thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được điều trị kịp thời, các giả mạc có thể gây tắc đường thở, làm bệnh nhân suy hô hấp và tử vong nhanh chóng.
Ngoài những vị trí kể trên, vi khuẩn còn có thể gây bệnh ở một số vị trí khác nhưng những trường hợp này rất hiếm và có tiến triển bệnh nhẹ.
Biến chứng khôn lường của bệnh bạch hầu
Biến chứng thường gặp nhất ở bệnh là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh. Biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra ở giai đoạn toàn phát hoặc có thể chậm vài tuần sau khi người bệnh khỏi. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tỷ lệ tử vong thường rất cao. Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và sẽ hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì những biến chứng khác.
Liệt màn khẩu cái (màn hầu) là một biến chứng khác có thể gặp ở bệnh bạch hầu, thường xuất hiện vào tuần 3 của bệnh.
Liệt các dây thần kinh vận nhãn, liệt cơ chi và cơ hoành có thể xuất hiện vào tuần thứ 5 của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp có thể xuất hiện do hậu quả liệt cơ hoành. Ở trẻ em, đặc biệt là nhũ nhi có thể gặp các biến chứng như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp.
Bệnh có thể xảy ra trong 3 tháng cuối thai kỳ hoặc giai đoạn sau sinh. Tỷ lệ tử vong của bệnh đối với sản phụ là khoảng 50%, một phần ba trường hợp sống sót có thể bị sảy thai hoặc sinh non. Điều trị sớm bằng huyết thanh kháng bạch hầu có thể cải thiện tỷ lệ sống sót và mang thai, nhưng biến chứng vẫn cần được điều trị kéo dài.
Tỷ lệ tử vong của bệnh thường vào khoảng 5% – 10% và có thể tăng cao lên đến 20% ở trẻ dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi.
Phương pháp phòng ngừa
Bệnh có thể được phòng ngừa hiệu quả bằng việc tiêm vắc-xin. Hiện nay tại Việt Nam không có vắc-xin đơn phòng bệnh bạch hầu, chỉ có vắc-xin những vắc-xin phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu.
Cảnh báo đáng sợ về vi khuẩn
Một nghiên cứu quy mô lớn cho thấy vi khuẩn trở thành nguyên nhân gây tử vong cao thứ 2 thế giới, chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ
Nghiên cứu quốc tế được công bố trên tạp chí y học hàng đầu The Lancet hôm 22-11 chỉ ra trong năm 2019 có tới 7,7 triệu ca tử vong liên quan đến 33 mầm bệnh vi khuẩn, chiếm 13,6% tổng số ca tử vong toàn cầu.
Số ca tử vong do bệnh truyền nhiễm nói chung là 13,7 triệu ca, tức vi khuẩn đã lấn át cả virus. Như vậy, vi khuẩn trở thành nguyên nhân gây tử vong xếp hàng thứ 2 thế giới, chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ.
"Chúng nên được coi là ưu tiên khẩn cấp để can thiệp trong cộng đồng y tế toàn cầu" - trang MedScape dẫn lời chuyên gia Mohsen Naghavi của Trường ĐH Washington (Mỹ), cho biết.
33 vi khuẩn nói trên được tìm thấy trong 11 hội chứng truyền nhiễm chính ở 204 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong số này, có 5 loài đặc biệt nguy hiểm là tụ cầu vàng, E.coli, phế cầu khuẩn, trực khuẩn Klebsiella pneumoniae và trực khuẩn mủ xanh và chúng gây ra 54,9% số ca tử vong do vi khuẩn. Tụ cầu vàng (gây ngộ độc tiêu hóa, nhiễm trùng da, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng bệnh viện...) gây tử vong nhiều nhất với hơn 1 triệu ca.
Nghiên cứu cũng chỉ ra khoảng cách về tỉ lệ tử vong do vi khuẩn giữa các vùng giàu và nghèo. Vùng châu Phi Hạ Sahara ghi nhận số ca tử vong do nhiễm khuẩn là 230 ca trên 100.000 dân nhưng con số này ở những vùng được cho là có thu nhập cao, như Tây Âu, Bắc Mỹ... là 52 ca trên 100.000 dân.
Khoảng cách vắc-xin, tình trạng sử dụng kháng sinh không đúng ở các quốc gia đang phát triển được chỉ ra trong sự khác biệt này.
Trại tị nạn Alla Futo ở vùng ngoại ô thủ đô Mogadishu - Somalia, một quốc gia thuộc vùng châu Phi Hạ Sahara, tâm điểm của bệnh do vi khuẩn Ảnh: REUTERS
Cuộc nghiên cứu trên là đánh giá toàn cầu đầu tiên về tỉ lệ tử vong do vi khuẩn gây ra. Giới chuyên gia nhận định những dữ liệu này nêu bật thách thức mà các bệnh nhiễm khuẩn gây ra đối với y tế công cộng toàn cầu.
Họ cho rằng cần đưa kết quả nghiên cứu mới vào các sáng kiến y tế toàn cầu để có thể nghiên cứu sâu hơn những mầm bệnh có khả năng gây chết người, cũng như cần có sự đầu tư phù hợp để giảm số ca nhiễm và tử vong.
Riêng nhóm tác giả cho rằng việc thiếu dữ liệu về gánh nặng toàn cầu do vi khuẩn khiến việc thiết lập các ưu tiên về sức khỏe cộng đồng trở nên khó khăn. Giờ đây, kết quả công trình trên giúp đề ra các chiến lược nhằm giảm bớt gánh nặng này.
Trước hết, dự phòng lây nhiễm là nền tảng, trong đó có các chương trình nhằm giảm nhiễm trùng bệnh viện, giáo dục sức khỏe cộng đồng, quản lý suy dinh dưỡng, giúp người dân tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh tốt hơn...
Ngoài ra, cần tăng cường tiêm chủng vì một số loài đã có vắc-xin, ví dụ phế cầu khuẩn; cũng như đầu tư phát triển vắc-xin thế hệ mới.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm sự sẵn sàng của các dịch vụ chăm sóc khẩn cấp nhằm giảm số ca tử vong do nhiễm khuẩn, bao gồm tiếp cận kịp thời với kháng sinh thích hợp, nâng cao năng lực vi sinh để xác định mầm bệnh. Cuối cùng, đẩy mạnh phát triển kháng sinh mới trước mối đe dọa ngày càng tăng của vi khuẩn kháng thuốc.
Cũng liên quan đến mối đe dọa trên, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hôm 21-11 cho biết đã triệu tập hơn 300 nhà khoa học để xem xét bằng chứng về 25 họ vi khuẩn và virus có nguy cơ gây ra đợt bùng phát dịch bệnh hoặc đại dịch tiếp theo.
Nỗ lực này sẽ đưa ra hướng dẫn cho sự đầu tư, nghiên cứu và phát triển toàn cầu nhằm chống lại các mầm bệnh nguy hiểm nhất, đặc biệt trong lĩnh vực vắc-xin, xét nghiệm và thuốc điều trị.
Kinh hoàng: Hàng loạt người bị ong tấn công, 4 người nhiễm độc nặng Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình vừa tiếp nhận nhiều bệnh nhân bị ong khổng lồ đốt, 4 người trong tình trạng nhiễm độc nặng. Thông tin từ Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình cho biết, ngày 28/10, các bác sĩ của bệnh viện đã cấp cứu nhiều người dân bị đàn ong khoái tấn công. Đây là loại ong mật...