Lý Quang Diệu và hình bóng một tầm nhìn vĩ đại
23/3 là ngày kỷ niệm một năm ngày ông Lý Quang Diệu từ trần. Tư duy và tầm tư tưởng của vị thủ tướng sáng lập Singapore vẫn là điều mà nhiều nước châu Á hướng tới và học tập.
Cuộc chia sẻ của ông Lý với Fareed Zakaria, nhà báo nổi tiếng của Time Magazine và CNN trên Foreign Affairs cách đây 20 năm vẫn cho ta thấy những tư duy sắc sảo của chính trị gia hàng đầu châu Á trong suốt thế kỷ 20 này.
- Ông không coi nước Mỹ như là mô hình cho các nước khác.
- Lý Quang Diệu: Là một người Đông Á nhìn vào nước Mỹ, tôi thấy cả những nét hấp dẫn và không hấp dẫn. Ví dụ, tôi thích mối quan hệ tự do, thoải mái và mở giữa mọi người bất chấp địa vị xã hội, sắc tộc và tôn giáo. Và những điều tôi luôn ngưỡng mộ nước Mỹ là độ cởi mở nhất định trong tranh luận cái gì là tốt, là xấu đối với xã hội; trách nhiệm giải trình của quan chức, không có kiểu bí mật và doạ dẫm như một số chế độ.
Nhưng nhìn tổng thể, tôi thấy có những điều không chấp nhận được trong xã hội này: súng ống, thuốc phiện, tội phạm bạo lực, người vô gia cư, các hành vi lố lăng ngoài đường, nói tóm lại là xã hội đổ vỡ. Sự mở rộng quyền tự do cá nhân thích hành động hay phá phách thế nào tuỳ ý gây ra tổn thất với trật tự xã hội. Ở phương Đông, mục đích chính luôn là trật tự xã hội ổn định để mọi người có thể có hưởng tự do của mình. Sự tự do này chỉ tồn tại trong xã hội ổn định chứ không phải ở đất nước của tranh cãi và vô chính phủ.
Để tôi cho anh ví dụ cho thấy sự khác biệt tổng thể giữa Mỹ và Singapore. Mỹ có vấn đề thuốc phiện nghiêm trọng. Giải quyết nó thế nào? Mỹ đi vòng quanh thế giới giúp các tổ chức chống thuốc phiện để tìm cách ngăn chặn những người cung cấp. Họ chi tiền cho trực thăng, các chất diệt cây,… và khi bị đối đầu, họ bắt sống tổng thống Panama rồi mang về xét xử ở Florida. Singapore không có lựa chọn đó. Chúng tôi chẳng thể đến Myanmar rồi bắt ông trùm ở đó. Điều chúng tôi làm là cho phép hải quan và cảnh sát nếu thấy ai đó nghi ngờ phê thuốc là lập tức yêu cầu anh ta thử nước tiểu. Nếu nước tiểu dương tính, anh ta phải đi cai nghiện ngay. Ở Mỹ anh làm vậy thì bị coi là xâm phạm quyền tự do cá nhân và bị kiện ngay tức khắc.
Quyền cá nhân ở Mỹ được coi là bất khả xâm phạm. Nhưng chẳng ai quan tâm khi quân đội đến và bắt tổng thống của một nước khác rồi đưa đến Florida và ném ông ta vào tù. Tôi chẳng thể nào hiểu được.
Cố thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu trong một cuộc phỏng vấn năm 2005.
- Công bằng mà nói 25 năm trước ông ngưỡng mộ nước Mỹ. Vậy theo ông, chuyện gì đã xấu đi?
- Đúng, mọi thứ thay đổi. Tôi mạo muội nói là đó sự xói mòn cơ sở đạo đức của xã hội và sự mất đi trách nhiệm cá nhân. Truyền thống tự do, tri thức mà phát triển sau chiến tranh Thế giới II cho rằng con người đã đến trạng thái hoàn hảo mà mọi thứ sẽ tốt hơn nếu con người thích làm gì thì làm. Thực tế thì chuyện đó không đúng. Có những điều cơ bản về con người mà sẽ không bao giờ thay đổi. Con người cần những ý thức đạo đức nhất định về đúng và sai. Có những thứ là xấu xa. Anh đơn giản là xấu xa, dễ làm những việc xấu và phải chặn anh không làm những việc xấu vậy. Người phương Tây từ bỏ những nền tảng đạo đức của xã hội, tin rằng mọi vấn đề có thể giải quyết bằng một chính phủ tốt – đây là điều mà phương Đông chúng tôi không bao giờ tin.
- Sự thay đổi văn hoá lớn chả nhẽ không thể đảo ngược?
- Không nó giống như giao động con lắc. Tôi nghĩ là nó sẽ lộn ngược lại. Tôi chỉ không biết sẽ là bao lâu, nhưng rõ ràng đã có những phản kháng ở Mỹ đối với các chính sách xã hội thất bại dẫn tới chuyện như người ta tè bậy ngoài đường, ăn xin một cách hung hãn trên phố hay chuyện xã hội tan rã.
Mô hình châu Á
- Ông nói điều ông lo lắng thật sự là không nên áp đặt hệ thống của các nơi khác vào hệ thống này vì nó sẽ không hiệu quả được. Có mô hình nào mà khả dĩ cho phát triển cả về chính trị và kinh tế? Có cái gọi là mô hình châu Á?
- Tôi không nghĩ là có mô hình châu Á như vậy. Nhưng xã hội châu Á khác xã hội phương Tây. Có sự khác biệt cơ bản giữa tư duy phương Tây và tư duy Đông Á về xã hội và chính phủ. Khi nói Đông Á tôi nói Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam vốn là sự pha trộn giữa văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ. Xã hội phương Đông tin rằng cá nhân tồn tại trong khuôn khổ gia đình. Anh ta không tách rời ra bối cảnh đó. Gia đình là một phần của gia đình rộng lớn hơn, rồi bạn bè rồi xã hội. Người lãnh đạo hay chính quyền không cố cung cấp cho cá nhân những gì mà gia đình có thể.
Ở phương Tây, đặc biệt sau Chiến tranh Thế giới II, chính phủ được coi là quá thành công mà nó có thể hoàn tất mọi trách nhiệm mà vốn ở các xã hội kém hiện đại hơn, điều đó thường được thực hiện bởi gia đình. Cách tiếp cận này khuyến khích các loại hình gia đình mới, như bà mẹ đơn thân chẳng hạn, tin rằng chính phủ có thể hỗ trợ thay cho người bố vắng mặt. Đó là sự táo bạo lớn. Cách mà tôi người Đông Á sẽ tránh. Tôi sẽ không dám thử nghiệm vậy. Tôi không chắc hậu quả là gì và tôi không thích những hậu quả mà tôi thấy ở phương Tây. Anh sẽ thấy quan điểm này được chia sẻ rộng khắp ở Đông Á. Không phải là chúng tôi không có các bà mẹ đơn thân ở đây.
Chúng tôi cũng rơi vào thách thức khi chúng tôi giáo dục phụ nữ, họ độc lập hơn về tài chính và họ không còn chấp nhận những cuộc hôn nhân không hạnh phúc nữa. Có sự lo lắng lớn khi chúng tôi có những thay đổi này, đặc biệt là gia đình. Đó là những viên gạch của xã hội. Có câu thành ngữ của Trung Quốc khái quát vấn đề này: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu thân nghĩa là tự lo bản thân, tự rèn luyện, làm mọi việc để mình trở nên có ích; tề gia là lo lắng cho gia đình; trị quốc là lo lắng cho đất nước; bình thiên hạ là tất cả dưới bầu trời đều thái bình. Đó là quan niệm cơ bản của văn minh chúng tôi. Chính quyền lên rồi chính quyền xuống, nhưng quan điểm này vẫn duy trì. Chúng tôi bắt đầu bằng sự tự túc của bản thân.
- Ông sẽ làm gì để giải quyết các vấn đề Mỹ?
- Tôi sẽ làm gì ah? Trước hết anh cần một xã hội trật tự. Súng ống, thuốc phiện và tội phạm bạo lực tất cả đang đe doạ trật tự xã hội. Rồi trường học, anh có bạo lực trong trường học thì sẽ không thể có giáo dục được, anh cần phải giải quyết vấn đề đó. Rồi anh phải giáo dục quyết liệt để xây dựng một thế hệ những người có kĩ năng, thông minh, uyên bác để làm việc được hiệu quả. Tôi muốn bắt đầu với những điều đơn giản, làm việc với cá nhân, nhìn anh ta trong bối cảnh gia đình, bạn bè và xã hội anh ta. Nhưng những người phương Tây thì nói tôi sẽ giải quyết vấn đề từ trên. Một công thức màu nhiệm, một kế hoạch lớn. Tôi sẽ vẫy chiếc đũa thần và mọi thứ sẽ tự giải quyết. Đó là lý thuyết thú vị nhưng chưa thể hiện được.
Trở về với cơ bản
- Ông không tin khả năng chính quyền giải quyết được các vấn đề nghiêm trọng của xã hội nhưng ông lại tin tưởng rằng chính quyền có thể thúc đẩy kinh tế và phát công nghệ. Đó có phải là sự mâu thuẫn không?
Video đang HOT
- Không. Chúng tôi tập trung vào các vấn đề cơ bản ở Singapore. Chúng tôi dùng gia đình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tính toán cái mong muốn của mỗi người và gia đình anh ta vào kế hoạch của chúng tôi. Ví dụ, chúng tôi đã giúp cải thiện được trẻ rất nhiều nhờ giáo dục. Chính phủ có thể tạo ra môi trường để mọi người có thể sống hạnh phúc, thành công và có thể thể hiện mình. Nhưng cuối cùng thì chính những gì họ làm với cuộc đời họ thì sẽ quyết định sự thành công hay thất bại về mặt kinh tế (của họ). Mặt nữa, chúng tôi may mắn là chúng tôi có cái văn hoá là niềm tin vào sự tiết kiệm, làm việc chăm chỉ, kính trọng cha mẹ, tôn kính gia đình mở rộng, và, trên hết, là tôn trọng trí thức và sự học.
Đương nhiên có nguyên nhân khác nữa cho thành công của chúng tôi. Chúng tôi có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế vì chúng tôi tạo điều kiện cho những thay đổi nhất định khi chúng tôi di chuyển từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp. Chúng tôi có lợi thế là biết kết quả nó thế nào khi nhìn vào phương Tây và Nhật Bản. Chúng tôi biết mình đang ở đâu và biết là mình đi đến đâu. Chúng tôi tự nhủ, “phải nhanh lên, phải xem có thể đến đó nhanh hơn.” Nhưng rất nhanh chúng tôi đối mặt với tình huống khác. Trong tương lai gần, chúng tôi sẽ đạt trình độ như Nhật Bản thì khi đó chúng tôi sẽ đi đâu tiếp. Làm sao chúng tôi có thể tăng tốc khi không biết là mình sẽ đi đến đâu. Đó là tình huống mới.
- Một số người nói rằng mô hình châu Á quá cứng nhắc để có thể thay đổi. Nhà xã hội học Mancur Olson thì lập luận rằng đất nước lụn bại phần lớn là do sự xơ cứng, ngại thay đổi của các nhóm, của các công ty, của lao động, của đồng vốn và chính quyền. Mô hình kiểu Mỹ thì rất linh động, để tự do buôn bán và thường xuyên thích nghi để phù hợp với thay đổi hơn là mô hình chính sách do chính quyền định hướng và hệ thống giá trị kiểu đạo Khổng.
- Đó là triết lý sống lạc quan và hấp dẫn, và tôi hi vọng nó thành sự thật. Nhưng nếu anh nhìn các xã hội qua cả ngàn năm thì anh sẽ thấy những mô thức căn bản. Nền văn minh Mỹ xuất phát tổ tiên những người hành hương, mô thức xã hội của họ là sự lạc quan và phát triển của chính phủ một cách tuần tự. Lịch sử của Trung Quốc là của các triều đại mà lên xuống theo sự mở rộng, suy sụp của các xã hội. Và qua tất cả thăng trầm đó, gia đình, gia đình mở rộng, các họ hàng, giống như là cái bè cứu sinh của cá nhân. Các nền văn minh đã sụp đổ, các triều đại đã bị cuốn đi bởi các nhóm chinh phục khác nhau nhưng cái bè cứu sinh này đảm bảo cho nền văn minh tiếp tục duy trì và đi tới giai đoạn mới.
Không ai ở xã hội phương Đông tin rằng chính phủ có thể cung cấp tất cả. Chính chính phủ cũng không tin là vậy. Trong cuộc khủng hoảng kinh hoàng nhất, kể cả trong động đất và gió bão, thì chính các liên hệ con người sẽ giúp bạn vượt qua. Nên quan điểm mà bạn nói rằng chính phủ luôn có khả năng tự làm mới mình trong các dạng thức mới thực tế chưa có trong lịch sử. Nhưng gia đình và cách thức con người liên hệ thì có cấu trúc và nó có thể giúp tăng cơ hội tồn tại của các thành viên của nó. Điều đó đã được thử thách qua cả ngàn năm và trong nhiều tình huống khác nhau.
Văn hóa thành công
- Một yếu tố quan trọng của thành công kinh tế quốc gia trong quá khứ là văn hoá sáng tạo và thử nghiệm. Trong giai đoạn vươn lên đạt thịnh vượng và quyền lực, Venice, Hà Lan, Anh và Mỹ tất cả đều có không khí của tự do tư tưởng mà những ý tưởng mới, công nghệ mới, cách làm và sản phẩm mới có thể phát triển. Ở các nước Đông Á, tuy nhiên chính quyền thường ngần ngại trước môi trường tự do tư tưởng này. Điều này có ảnh hưởng gì tới hiệu suất của nền kinh tế?
- Về mặt học thuật, điều đó nghe có vẻ như là kết luận hợp lý nhưng tôi không chắc mọi thứ diễn ra vậy. Người Nhật chẳng hạn không hề kém trong chuyện tạo ra các sản phẩm mới. Tôi nghĩ các chính phủ nếu hiểu lý thuyết này và biết nhu cầu về việc thử nghiệm các lĩnh vực mới, phá vỡ các khuôn khổ hiện tại, họ có thể đảo ngược xu thế (giảm năng suất). Người Đông Á, tất cả đều có chung tính kỉ luật rất cao, tôn trọng thày giáo, không nói lại với thày và thường học gạo, cần phải hiểu có nhu cầu tìm kiếm kiến thức như này để có công nghệ và sản phẩm mới. Dù thế nào, trong thế giới mà liên lạc điện tử giờ là ngày tức khắc, tôi không thấy cảnh mọi người tụt hậu phía sau. Bất cứ thứ gì mới đều cũng lan đi rất nhanh, dù đó là công nghệ siêu dẫn hay là lối sống mới.
- Ông có đồng ý với báo cáo của World Bank về thành công của kinh tế Đông Á mà theo tôi hiểu họ kết luận rằng tất cả các chính phủ thành công với các chính sách cơ bản, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, giữ lạm phát thấp, có nền giáo dục chất lượng cao…
- Tôi nghĩ World Bank có công việc rất khó. Họ phải viết những báo cáo rất phức tạp kiểu vậy. Nhưng có những yếu tố văn hoá mà rất ít được đề cập trong khi nó đáng được để ý hơn. Điều đó sẽ cho báo cáo có chiều sâu hơn và không bị chung chung chung vậy. Và như vậy thì báo cáo sẽ chính xác hơn, ví dụ để giải thích sự khác biệt giữa Philippines với Đài Loan chẳng hạn.
-Nếu văn hoá quan trọng vậy, thì những nước có văn hoá rất khác có thể sẽ không thành công như các nước Đông Á? Ông không hi vọng gì về các nước trên thế giới đang tự do hoá nền kinh tế của họ?
-Việc làm đúng những chính sách cơ bản có thể giúp, nhưng các xã hội khác sẽ không thể thành công như Đông Á vì họ thiếu những động lực nhất định. Nếu anh có nền văn hoá mà không chú trọng vào việc học, vào tri thức, chăm chỉ, vào tiết kiệm, hạn chế vui chơi để phấn đấu cho tương lai thì sự tiến bộ sẽ chậm hơn nhiều.
Nhưng anh biết đấy, các kết luận của World Bank là một phần của văn hoá Mỹ, và phần nào đó là của các tổ chức quốc tế. Họ phải đưa ra những kết luận kiểu rất nhạt nhẽo và chung chung, mà tôi thấy không hài lòng vì nó chẳng giải quyết các vấn đề thực. Nó đưa ra những giả thuyết hi vọng rằng tất cả con người đều bình đẳng, mọi người trên thế giới đều như nhau. Nhưng điều đó không đúng. Các nhóm người khác nhau có những tính cách khác nhau khi họ đã tiến hoá cả ngàn năm trong tách biệt. Gen và lịch sử tương tác nhau. Người Da Đỏ Mỹ về mặt gen hoàn toàn giống người Mongoloid của Đông Á, người Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Nhưng một nhóm bị tách biệt ra khi eo biển Bering tách rời. Không có cầu nối cuối cùng đó, họ bị cô lập hoàn toàn ở Bắc Mỹ cả ngàn năm. Nhóm khác, ở Đông Á, đối mặt liên tiếp với các cuộc xâm chiếm của Trung Á và liên tục tương tác với các nhóm người đi và đến. Hai nhóm này có thể có những tính cách giống nhau nhất định, ví dụ như khi anh đo kích thước não bộ, nhưng khi anh tìm hiểu sẽ thấy ngay là họ khắc nhau, đặc biệt trong sự phát triển về tư duy logic, các giá trị văn hoá.
Nếu anh bỏ qua các vấn đề này vì các lý do chính trị thì tự bản thân anh đặt mình vào bãi mìn rồi. Đây là điều dẫn tới những thất vọng về chính sách xã hội mà vốn bắt đầu ở Mỹ với rất nhiều hào hứng và kỳ vọng nhưng cuối cùng đạt được kết quả rất hạn chế.
Mọi người không muốn nhìn sự vật như thực tế trái khoáy của nó.
- Văn hoá có thể quan trọng nhưng nó có thay đổi. Mô hình châu Á có thể là hiện tượng chuyển giao. Dù gì thì phương Tây cũng trải qua giai đoạn thế kỉ 18-19 mà họ là tư bản và có sự tham gia hạn chế trong nền dân chủ. Giới cầm quyền khi đó cũng lo lắng, giống như ông bây giờ, rằng có “quá nhiều” dân chủ” và có “quá nhiều” quyền cá nhân sẽ làm bất ổn trật tự. Nhưng khi các xã hội đó hiện đại hoá và kinh tế phát triển thì sẽ mở rộng ra các lĩnh vực khác của xã hội, mọi thứ thay đổi. Chẳng phải Đông Á đang thay đổi vì tầng lớp trung lưu mở rộng đòi hỏi có tiếng nói về tương lai của chính họ.
- Có sự thay đổi đột ngột ở Đông Á. Chúng tôi là các xã hội nông nghiệp và công nghiệp hóa chỉ trong 1-2 thế hệ. Những gì diễn ra ở phương Tây trong hơn 200 năm thì giờ diễn ra ở đây chỉ trong chưa đến 50 năm. Tất cả mọi thứ dồn nén và xung đột trong khoảng thời gian cực ngắn nên sẽ có những bất cập và sai sót. Nếu anh nhìn các nước đang phát triển nhanh, hàn QUốc, Thái Lan, Hong Kong Và Singapore, có một hiện tượng đáng kinh ngạc: sự trỗi dậy của tôn giáo. Người Hàn Quốc đã theo đạo Cơ Đốc với số lượng lớn – tôi nghĩ phải đến hơn 24%. Và đây là đất nước mà chưa bao giờ bị một nước Cơ Đốc nào chiếm làm thuộc địa cả. Các truyền thống và tôn giáo cũ, thờ cúng tổn tiên, gọi hồn, không còn làm mọi người hài lòng nữa.
Có mong muốn tìm những giải thích cao hơn về mục đích của con người, tại sao chúng ta ở đây. Điều này thường diễn ra trong các giai đoạn mà xã hội có nhiều căng thẳng. Anh sẽ thấy nước Nhật cứ mỗi lần qua giai đoạn khó khăn thì sẽ có những nhóm tôn giáo mới xuất hiện và lan rộng…
Chúng ta đang trong giai đoạn thay đổi rất nhanh và cùng lúc chúng ta cùng hướng tới một mục tiêu mà chúng ta hi vọng có gắn kết với quá khứ của chúng ta.
- Nhưng chẳng nhẽ những thay đổi kinh tế công nghệ không thể tạo ra thay đổi trong đầu óc con người?
- Đó không chỉ những là đầu óc cần thay đổi mà cả những hệ thống giá trị. Để tôi kể chuyện này. Rất nhiều gia đình người Hoa ở Malaysia đã di cư trong giai đoạn căng thẳng khi có các cuộc bạo loạn sắc tộc hồi những năm 1960 để chuyển sang sống ở Úc và Canada. Họ làm vậy vì con cháu với hi vọng họ có nền giáo dục tốt hơn bằng tiếng Anh khi Malaysia chuyển ngôn ngữ chính của mình sang tiếng Malay. Những đứa trẻ lớn lên, đến tuổi thanh niên và rời nhà. Rồi đột ngột cha mẹ thấy sự trống trải (khi con rời đi). Họ cho con cái nền giáo dục hiện đại bằng tiếng Anh và cùng lúc đó thì mất luôn con cái mình. Đó là trải nghiệm rất sốc.
Ở Singapore cũng có những thay đổi vậy nhưng ít kịch tính hơn. Chúng tôi đang nuôi con cái trong hoàn cảnh khác so với thời chúng tôi lớn lên.
- Ông vẫn nói kiến thức, lối sống và văn hoá lan truyền rất nhanh trong thế giới này. Chả nhẽ ý tưởng về dân chủ quyền con người lại không lan truyền?
- Không nên tranh luận về mặt ngữ nghĩa đó. Hệ thống chính phủ ở Trung Quốc sẽ thay đổi. Ở Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam cũng sẽ có thay đổi. Thay đổi cũng đang diễn ra ở Singapore. Nhưng kết cục thì họ cũng sẽ không thành hệ thống kiểu Mỹ, Anh Pháp hay Đức. Chúng tôi đang tìm kiếm gì? Một dạng chính phủ mà thuận tiện, vì nó đáp ứng nhu cầu của chúng tôi, không mang tính đàn áp và tối đa hoá cơ hội. Và dù anh có mỗi người một lá phiếu, hay một số người một lá phiếu,…Tôi thì không tin hoàn toàn mỗi người một lá phiếu là tốt. Chúng tôi làm điều đó vì đó là thứ người Anh áp đặt lại và chúng tôi chưa thấy nhu cầu để thay đổi điều đó. Về cá nhân thì tôi tin rằng, chúng ta sẽ có hệ thống tốt hơn nếu chúng ta cho tấ cả những người trên 40 tuổi và có gia đình hai lá phiếu vì lúc đó anh ta cẩn trọng hơn và việc bỏ phiếu cũng vì con cái anh ta. Anh ta sẽ cẩn trọng bỏ phiếu hơn là những chàng trai trẻ dưới 30 tuổi mà chẳng biết gì.
Nhưng chúng tôi chưa thấy thay đổi là cần thiết. Nếu nó cần thiết chúng tôi sẽ làm điều đó. Rồi cùng lúc, khi một người đã trên 65, khi đó chúng ta lại có vấn đề. Tuổi lý tưởng là từ 40-60, và đến 60 tuổi thì họ nên quay trở lại 1 phiếu. Nhưng làm vậy thì sẽ rất khó để sắp xếp.
- Phương Tây không chỉ là nơi tạo ra thịnh vượng lớn nhất cho thế giới trong suốt bốn thế kỉ qua, nó đồng thời là nơi sản sinh ra nhiều cuộc chiến nhất. Ngày nay Đông Á là nơi tập trung của tăng trưởng nhanh và một loạt các cường quốc mới cạnh nhau. Với những hệ thống chính trị khác nhau, những thù hằn từ lịch sử, cạnh tranh lãnh thổ và lượng vũ khí ngày càng nhiều. Liệu quá khứ của châu Âu có trở thành tương lai của Đông Á?
- Không, vậy thì đơn giản quá. Đây là một phỏng đoán của tôi, một lý do tại sao mà tăng trưởng ở ĐÔng Á kéo dài trong nhiều năm hơn là vì con người và chính phủ Đông Á đã học được những bài học lớn về sự tàn khốc của chiến tranh. Không phải các cuộc chiến toàn diện như ở Hàn QUốc mà chiến tranh du kích ở VN, ở Campuchia, ở các cánh rừng ở Malaysia, Thái, Indonesia và Philippines. Chúng tôi biết rằng càng tham chiến nhiều thì anh càng nghèo và kiệt quệ. Ở các nước chiến tranh: thế giới cứ lướt đi qua họ. Đó là bài học mà sẽ còn có ý nghĩa rất lâu, ít nhất là với thế hệ này.
- Một trong những yếu tố gây bất ổn nhất đối với hệ thống thế giới chính là sự vươn lên của một siêu cường mới. Liệu sự vươn lên của Trung Quốc có thích nghi được vào trật tự của Đông Á?
- Tôi không nghĩ chúng ta có thể nói chỉ về trật tự Đông Á. Câu hỏi là: liệu thế giới có phát triển được hệ thống mà một nước quy mô như Trung Quốc có thể tham gia vào hệ thống điều hành hoà bình và ổn định thế giới? Khoảng 20-30 năm tới, tôi nghĩ các cường quốc lớn sẽ phải thống nhất với nhau về cách kiểm soát hoà bình và ổn định, làm thế nào để tạo trật tự mà vừa hợp lý và vừa công bằng. Chiến tranh giữa các nước nhỏ không huỷ hoại cả thế giới mà chỉ huỷ hoại chính họ mà thôi. Nhưng xung đột lớn giữa các cường quốc sẽ huỷ hoại thế giới rất nhiều lần. Đó là những điều quá nguy hại và không nên nghĩ đến.
Tôi vẫn nghĩ con đường tiến lên tốt nhất là qua Liên Hiệp Quốc. Nó không hoàn hảo nhưng có gì thay thế không?
- Có gì mâu thuẫn giữa vai trò ông là chính trị gia và vai trò mới như là học giả và bình luận trên mọi vấn đề? Là chính trị gia thì ông mong nước Mỹ là điểm cân bằng lớn cho khu vực, một đất nước được kính sợ trên toàn thế giới. Là học giả, thì ông chỉ trích mô hình Mỹ rất nhiều và có vẻ như là làm ảnh hưởng rất nhiều uy tín của nước Mỹ.
- Điều đó là lố bịch. Tôi không bao giờ muốn hạ thấp uy tín nước Mỹ. Nước Mỹ có vai trò đặc biệt trong lịch sử thế giới. Là siêu cường duy nhất, với vũ khí hạt nhân và là chính phủ duy nhất không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh trong khi các nước khác trong tro tàn. Bất cứ đế quốc cũ nào cũng sẽ cố duy trì khả năng chi phối của mình càng lâu càng tốt. Nhưng nước Mỹ ngay từ đầu đã buộc các đối thủ của mình phục tùng, tạo ra các thay đổi công nghệ rồi chuyển giao các công nghệ này tự do và hào phóng cho châu Âu và người Nhật, tạo điều kiện để 30 năm sau họ thách thức lại chính nước Mỹ. Rồi tới 1975 thì nước Mỹ lại suy sụp. Đó cũng là chưa từng có trong lịch sử. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là chúng tôi ngưỡng mộ tất cả những gì về nước Mỹ.
Tôi nói thẳng này: nếu không có những điểm tốt mà phương Tây hướng dẫn, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thoát được lạc hậu. Chúng tôi sẽ vẫn là nền kinh tế lạc hậu trong xã hội lạc hậu. Nhưng chúng tôi chẳng muốn tất cả như phương Tây.
Thanh Tuấn
Theo Zing News
Khám phá những bức họa của người ngoài hành tinh
Nhiều bức họa trên đá có niên đại hàng nghìn năm được cho là tác phẩm của nền văn minh ngoài Trái Đất.
Tranh khắc trên đá tại hẻm núi Sego (Utah)
Những bức tranh trên vách đá sa thạch kỳ dị này có thể được tìm thấy khắp các hẻm núi tại Sego (bang Utah, Mỹ). Theo các nhà khảo cổ, những hình ảnh này đã được người Mỹ bản địa thời cổ đại khắc từ 8.000 năm trước.
Trong suốt quá trình di cư dọc Tây Nam nước Mỹ, họ đã khắc rất nhiều hình ảnh phong phú về các cuộc săn bắn thú rừng, trồng trọt và cuộc sống trú ẩn trong các hang động, hình thành nên phong cách khắc đá Barrie Canyon nổi tiếng.
Xen kẽ trong đó là những bức tranh huyền bí theo thuyết hình người xuất hiện với tần suất dày đặc với khoảng 80 bức khắp các vách đá.
Những bức vẽ lớn bằng mực đỏ thể hiện hình người kỳ lạ với phần đầu dạng bóng đèn và hốc mắt to, sâu hoắm, đôi tai thõng xuống, các cặp sừng dài và cả những sợi "ăng-ten" dựng đứng nổi bần bật trên đỉnh đầu.
Những sinh vật kỳ quái này không có tay chân mà "thuôn đuồn đuột" từ đầu đến chân theo trục thẳng đứng. Một số còn có những con rắn lổm ngổm vây quanh rất rùng rợn.
Các học giả một mực cho rằng các hình ảnh lạ lùng này miêu tả những Shaman (pháp sư) đang trong trạng thái như hôn mê trong các nghi lễ tâm linh.
Cũng có một cách giải thích khác hợp lý hơn cho những bức vẽ "ám ảnh" trên đây, đó là người tiền sử đã tận mắt chứng kiến những binh đoàn xa lạ đổ bộ xuống Trái Đất ngay từ thời cổ đại. Và khi đó, ông cha ta chỉ việc chép lại y chang trên các vách núi đá mà thôi!
Bảng vẽ khổng lồ Wondjina tại các hang động Kimberly (Úc)
Những hình ảnh rợn tóc gáy này có tên gọi là Wondjima, do những bộ tộc bản địa châu Úc vẽ thành các bảng vẽ khổng lồ trên vách các hang động vùng Kimberly, khoảng 3.800 năm trước.
Trong thần thoại của thổ dân Úc cổ xưa, Wondjima là những "người trời" từ dải Ngân Hà giáng trần trong thời kỳ Dreamtime (Sáng Thế). Chính những đấng tối cao này đã tạo ra Trái Đất và loài người, giảng dạy rất nhiều kiến thức và được tất cả các bộ lạc thổ dân thờ phụng.
Đến nay, các bộ lạc người Worora, Ngarinyin và Wunumbul vẫn xem Wondjina như những linh hồn tối cao, và luôn hết mực tôn thờ các bảng hình vẽ này. Người thổ dân cũng tin rằng, nếu hình ảnh Wondjina bị xâm phạm, họ sẽ tìm cách trả thù bằng những cơn sấm chớp, gió bão và lũ lụt khủng khiếp.
Những hình ảnh của Wondjima thường được vẽ dạng đầu người với đôi mắt to sâu hoắm, lấn át sự cân xứng giữa khuôn mặt và phần mũi. Họ cũng không có miệng vì người Úc bản địa tin rằng Wondjima rất quyền lực và trời sẽ mưa liên tục nếu họ có thể nói được.
Những gương mặt này thường trắng toát, với những quầng sáng trên đầu như chiếc mũ của các phi hành gia.
Mặc dù theo truyền thuyết, các thổ dân cho rằng đó chính là hình ảnh của người Wondjina mà tổ tiên họ từng được gặp và phác họa lại, các nhà khoa học lại cho rằng đây là lối vẽ cách điệu khuôn mặt con người hoặc của loài chim cú.
Có người lại khẳng định đó chính là chân dung của những người ngoài hành tinh đến thăm viếng Trái Đất từ hàng ngàn năm trước đây!
Hình vẽ trong hang động Tassili (sa mạc Algeria)
Được tìm thấy ở vùng sa mạc rộng lớn tại cao nguyên Tassili (Đông Nam Algeria), những hình ảnh trong các hang động này có niên đại từ 8.000 - 10.000 năm trước Công Nguyên. Chúng cũng là những bức vẽ lộ thiên cổ xưa nhất ở châu Phi và là những bức vẽ tiền sử lớn nhất trên Trái Đất.
Những bức tranh khổng lồ được những người săn bắt hái lượm trong thời kỳ Round Head ở sa mạc Sahara vẽ nên. Đối tượng được các thổ dân họa lại là những người kỳ quái với phần đầu tròn và cơ thể không có hình dáng cụ thể, trôi nổi lềnh bềnh trong không gian, mặc những trang phục dị thường và đội những chiếc nón hệt như của các phi hành gia thời nay.
Trên vách của một hang động nổi tiếng được đặt tên là "Chúa Sao Hỏa vĩ đại" nằm ở vùng núi này có những hình ảnh miêu tả nhà du hành vũ trụ đội mũ vô cùng to lớn đến 5,5 mét - một kích thước cao hơn nhiều so với con người hay động vật được vẽ gần đó.
Thậm chí có những bức còn khắc hình dạng như chiếc đĩa bay phía sau lưng người đàn ông. Phong cách kỳ dị này dẫn đến nhiều câu hỏi, phải chăng chính các thổ dân đã tận mắt chứng kiến những sinh vật to lớn đến vậy ở thời kỳ cổ đại?
Và những bức vẽ này là bằng chứng cho thấy người du hành ngoài hành tinh đã can thiệp vào tiến trình tiến hóa của loài người? Mặc dù đến nay những giả thuyết này vẫn còn là dấu chấm hỏi song bạn có công nhận chính những bí ẩn này đã khiến lịch sử của Trái Đất và nhân loại càng thêm kì bí?
Theo Dân Việt
Theo_Giáo dục thời đại
Obama thăm Cuba: Kỳ vọng thay đổi, bình thường hóa vĩnh viễn Quan hệ giữa Washington và Havana sẽ trở lên tốt đẹp một khi Mỹ thực sự chấp nhận sự khác biệt còn Cuba cởi mở hơn để phát triển kinh tế. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một tổng thống Mỹ đương nhiệm tới đảo quốc Caribe này trong 88 năm qua và được coi là một chuyến thăm lịch sử, bước...