Lưu ý khi thay dầu động cơ
Chọn dầu “xịn”, phù hợp với động cơ và thường xuyên thay thế sẽ giúp động cơ đạt trạng vận hành tối đa. Nhưng nếu để đưa ra lựa chọn phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tế, mỗi chủ xe cần có hiểu biết nhất định.
Hàng loạt các thương hiệu dầu nổi tiếng, với danh sách dài sản phẩm thường làm cho những người không chuyên choáng ngợp. Thậm chí ngay cả với dân nhiều năm trong nghề vẫn có thể nhầm lẫn giữa dầu máy nói chung và dầu dùng trên động cơ. Cũng gọi là dầu máy, nhưng dầu động cơ phức tạp, cần nhiều thử nghiệm và liên tục cải tiến để phù hợp hơn với xe.
Độ nhớt dầu thay đổi theo nhiều độ
Khi trời lạnh, dầu thường quánh lại, trông có vẻ đặc hơn. Khi nhiệt độ cao, chúng trở nên loãng bởi khi ấy độ nhớt thay đổi. Đây là thông số quan trọng nhất khi lựa chọn loại dầu phù hợp loại dầu phù hợp với động cơ. Hệ thống đánh giá độ nhớt do Hiệp hội kỹ sư ôtô Mỹ (SAE) phát triển. Giá trị độ nhớt ghi ngoài vỏ chai thường có 4 hoặc 5 ký tự, ví dụ: 10W-30. Hai chữ số đầu liền với ký tự “W” – Winter (mùa đông) là độ nhớt đo ở -18 độ C. Hai chữ số sau là độ nhớt khi dầu ở 100 độ C.
Ảnh minh họa.
Quan điểm lựa chọn dầu độ nhớt cao để động cơ bền hơn là sai lầm. Động cơ đời cũ sử dụng dầu độ nhớt cao, nhưng loại mới lại sử dụng dầu độ nhớt thấp. Các linh kiện chế tạo ngày càng chính xác, khe hở giữa chúng nhỏ hơn loại cũ. Nếu dùng dầu độ nhớt cao cho động cơ mới, lúc làm việc ở chế độ lạnh (mới khởi động, nhiệt độ động cơ thấp) dễ phát sinh hiện tượng bôi trơn không đầy đủ – dầu không đi tới tất cả các khu vực khe hở hẹp. Một lợi thế khác của dầu độ nhớt thấp là cản thấp, động cơ chạy tiết kiệm nhiên liệu hơn.
Tuy vậy, nếu xe đã đi nhiều, khe hở giữa các chi tiết lớn thì việc sử dụng dầu độ nhớt cao lại là lựa chọn khôn ngoan bởi chúng làm tăng độ kín của bộ hơi, dễ tạo ra trạng thái bôi trơn thủy động lý tưởng. Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến việc thay dầu định kỳ, vì sau thời gian sử dụng độ nhớt của dầu giảm dần.
Thời điểm thay dầu phù hợp
Khuyến cáo về chu kỳ thay dầu của các hãng xe không đồng nhất. Người ta thường thay dầu sau mỗi 5.000 km với lý do để động cơ bền hơn. Nhưng điều này đôi khi lại lãng phí vì không thai thác hết tuổi thọ sử dụng của dầu. Một vài hãng sản xuất xe và các nhà bảo vệ môi trường lại khuyên nên thay khi xe đạt 16.000 km.
Video đang HOT
Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề này là phụ thuộc vào cách lái xe. Nếu hiếm khi chạy quá 16 km trong mỗi lần sử dụng (thời gian không đủ nhiệt để làm sôi nước ngưng tụ) hoặc thường xuyên khởi động khi dầu nguội (trạng thái các chi tiết mài mòn nhanh) thì chu kỳ thay cần được rút ngắn hơn. Trong trường hợp xe chạy thường trên 32 km trên đường trường, thì quãng đường xe chạy giữa hai lần thay có thể kéo dài hơn so với khuyến cáo.
Thế Hoàng
Theo VNE
3 lí do khiến động cơ xe sớm lên 'bàn mổ'
Dù có sở hữu động cơ bền và tốt, nhưng nếu không thường xuyên được chăm sóc, chiếc xe sẽ nhanh chóng phải đến garage để đại tu lại.
Dưới đây là 3 lý do cơ bản khiến động cơ xe ô tô "lâm bệnh nặng", dẫn đến phải "bổ" máy khắc phục:
1. Động cơ bị thủy kích
Thủy kích là hiện tượng xe bị nước tràn vào đường hút gió của máy, làm xe chết máy đột ngột. Trong trường hợp này, nếu người lái xe cố tình đề máy, nước sẽ bị hút sâu vào động cơ, dẫn đến hỏng máy.
Nước theo đường hút gió lọt vào động cơ.
Với điều kiện vận hành bình thường, các piston đang lao lên ép hỗn hợp khí nạp với tốc độ khoảng 1.000 vòng/phút. Tuy nhiên, khi nước tràn vào đường hút gió và chiếm chỗ của hỗn hợp khí nạp và vì nước không chịu nén nên chính lực ép này đã tạo phản lực làm biến dạng các tay biên và piston. Khi tay biên cong quá sẽ bị gẫy, đoạn gẫy này sẽ chọc thủng thành động cơ, phá huỷ máy xe.
Hiện tượng thủy kích làm hỏng tay biên.
Hậu quả của thủy kích thường rất nặng nề, do hư hỏng nằm ở động cơ - trái tim của xe. Chi phí sửa chữa trong trường hợp bị thủy kích thường rất lớn, ít cũng vài chục triệu đồng khi chỉ phải thay tay biên, nhiều có thể lên tới vài trăm triệu đồng nếu chẳng may phải thay cả cụm động cơ mới.
2. Hao hụt nước làm mát
Khi động cơ thiếu nước làm mát sẽ dẫn đến nóng quá mức. Động cơ bắt đầu phát ra tiếng ping, công suất tụt giảm bởi nhiệt độ và áp suất trong buồng cháy vượt quá mức cho phép của chỉ số octan nhiên liệu, hiện tượng cháy xảy ra trước khi bugi đánh lửa. Các hệ thống không còn nhịp nhàng nữa, vòng gioăng, piston và ổ bi sẽ gặp hư hỏng.
Vòng gioăng bị hư hỏng do động cơ quá nóng.
Gioăng quy-lát làm nhiệm vụ đệm giữa nắp máy với thân máy sẽ bị thổi bay khi máy nóng quá mức. Nhiệt độ làm nhôm nở ra với tốc độ nhanh gấp 3 lần so với gang. Ứng suất tạo ra bóp méo mép nhôm. Khi động cơ nguội đi, nhôm co lại để lộ khe hở giữa thân và nắp máy, chức năng làm kín không được duy trì, nước hoặc dầu lọt vào. Nếu nhiệt độ tăng quá cao, áp suất buồng đốt có thể sẽ thổi bay phần gioăng bị phồng lên.
Động cơ chạy, xuất hiện khói trắng, điều đó có nghĩa là gioăng đã bị thổi cháy,nước làm mát hoặc lọc dầu lọt vào buồng đốt. Dấu hiệu này báo hiệu nhiều hư hỏng trầm trọng có thể xảy ra: hơi nước làm hỏng bộ xúc tác. Nước làm mát lọt vào nhiều có thể làm cong thanh truyền (tay biên)... Rất có thể bạn sẽ phải từ bỏ động cơ khi nước lọt vào các-te.
Gioăng bị thổi cháy dẫn đến khoang động cơ bị hở.
Khi nhiệt tăng cao, linh kiện trong động cơ giãn nở ở mức độ khác nhau. Các mối lắp ghép dễ rơi vào tình trạng kẹt chặt hoặc bó cứng. Piston nở to cào xước bề mặt xi-lanh. Nếu bánh đà quay ở tốc độ cao mà piston bó cứng, đó là điều kiện khiến thanh truyền bị cong. Van xả nóng kẹt trong ghít dẫn hướng, làm bề mặt trong của ghít bị cào xước, hệ thống phân phối khí bị quá tải.
3. Hao hụt dầu động cơ
Tiêu hao dầu động cơ thường xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản: dầu lọt qua bạc dẫn hướng xu páp vào buồng đốt và séc-măng bị hư hại. Nếu ống dẫn hướng xu páp bị mòn hoặc nếu khe hở giữa xu páp và bạc dẫn hướng quá lớn hoặc phớt dầu đuôi ống dẫn hướng xu páp mòn, nứt, vỡ hoặc lắp ráp không đúng, dầu bôi trơn sẽ bị hút vào buồng đốt qua bạc dẫn hướng xu páp. Động cơ vẫn tạo ra được lực nén ép tốt nhưng lại tiêu hao quá nhiều dầu.
Động cơ bị phá hỏng do hao hụt dầu.
Bạc dẫn hướng xu páp bị mòn có thể phục hồi theo một số cách khác nhau. Một số trạm bảo hành sử dụng phương pháp phổ biến là khoét rộng thêm bạc dẫn hướng và phủ một lớp đồng mỏng. Việc tạo vân trên mặt bạc, tiếp xúc với xu páp là một biện pháp khác có thể làm giảm khe hở bạc dẫn hướng. Với những động cơ có nắp quy lát được chế tạo bằng nhôm, bạc dẫn hướng nguyên bản có thể tháo ra và thay thế bằng một cái mới. Với nắp quy lát được chế tạo bằng gang đúc, bạc dẫn hướng có thể khoét rộng thêm để chèn thêm bạc lót vào.
Dầu động cơ bị tiêu hao do séc-măng mòn hoặc gãy hoặc mòn bề mặt xi-lanh, động cơ sẽ bị giảm áp suất nén. Chỉ có một cách để khắc phục hư hỏng này là doa hoặc mài các xi-lanh và thay thế các séc-măng bị mòn hoặc gãy. Đa số các động cơ mới ngày nay không cho phép doa xi-lanh mà cách khắc phục duy nhất khi xi-lanh bị mòn là thay xi-lanh mới.
Dầu bị tiêu hao còn do quá trình đại tu máy không đúng cách.
Dầu bị tiêu hao cũng có thể do các xi-lanh mới được đại tu bằng cách lên cốt không được doa, mài đúng cách (quá thô hoặc quá mịn) hoặc các séc-măng bị lắp ngược thứ tự, bị uốn, xoắn trong rãnh séc-măng hoặc khe hở đầu séc-măng quá lớn hoặc các khe hở đặt so le không đúng làm khí lọt vào nhiều hơn.
Theo Autodaily
Bắt bệnh động cơ qua tiếng kêu Những âm thanh lạ phát ra từ buồng máy có thể là dấu hiệu cho thấy áp suất dầu thấp, khe hở nhiệt lớn hoặc một vài chi tiết bên trong động cơ bị mòn quá mức hay gặp sự cố. Công việc đầu tiên nhưng khá quan trọng khi nghe thấy âm thanh lạ phát ra từ động cơ là kiểm tra...