Luật sư mệt mỏi khi xin gặp thân chủ trong trại giam
Ngoài chuyện bị làm khó khi xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa, các luật sư còn mệt mỏi trước việc cứ mỗi giai đoạn tố tụng lại phải làm thủ tục cấp giấy mới.
Ảnh minh họa
Luật sư Lê Quang Y (Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai) kể ông nhận bào chữa cho một bị can bị tạm giam song nhiều lần gặp khó khi đề nghị cơ quan điều tra làm thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự, trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của luật sư kèm theo giấy tờ liên quan, cơ quan tố tụng phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa, nếu từ chối thì phải nêu rõ lý do. Nhìn qua quy định, tưởng chừng việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa rất đơn giản. Thế nhưng suốt nửa năm sau đó, luật sư Y đã phải “trầy vi tróc vảy” vì chuyện này.
Đầu tiên, cơ quan điều tra liên tục trì hoãn việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho ông với nhiều lý do. Chỉ khi ông gửi đơn qua đường bưu điện thì mới nhận được văn bản trả lời là bị can “từ chối yêu cầu luật sư”. Không đồng ý, ông trực tiếp đến cơ quan điều tra làm việc thì nơi này cho biết đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ cho VKS, “luật sư qua đó mà làm việc”.
Qua VKS, luật sư Y mới được biết thì ra bị can không hề từ chối yêu cầu luật sư như cơ quan điều tra viện dẫn. Sau đó, ông đã được VKS cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
Vụ án bị VKS trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Luật sư Y cầm giấy chứng nhận người bào chữa do VKS cấp đến cơ quan điều tra làm việc. Lúc này cơ quan điều tra bảo giấy chứng nhận người bào chữa của ông không còn giá trị, ông cần phải làm thủ tục xin cơ quan điều tra cấp lại giấy mới.
Mỗi giai đoạn một giấy chứng nhận
Câu chuyện của luật sư Y là một thực tế phổ biến hiện nay đối với giới luật sư khi tham gia tố tụng hình sự (trừ trường hợp bào chữa theo chỉ định). Ngoài chuyện bị làm khó khi xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa, các luật sư còn mệt mỏi trước việc cứ mỗi giai đoạn tố tụng lại phải làm thủ tục xin cấp giấy mới.
“Rất mệt mỏi và phiền hà”, luật sư Lê Dũng (Đoàn Luật sư TP HCM) nói. Ông kể mình nhận bào chữa cho một bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích ở huyện Đăk R’lấp (Đắk Nông). Ông làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa để tham gia phiên tòa sơ thẩm. Sau đó, vụ án được chuyển lên TAND tỉnh để xét xử phúc thẩm. Một lần nữa, ông lại phải làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận mới.
Video đang HOT
Tương tự, luật sư Phan Trung Hoài (Ủy viên Ban Thường vụ – Chủ nhiệm Ủy ban Bảo vệ quyền lợi luật sư thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam) kể: Vừa qua, ông tham gia bảo vệ quyền lợi cho một bị cáo từ giai đoạn điều tra cho đến giai đoạn xét xử phúc thẩm. Cứ mỗi giai đoạn tố tụng, ông đều phải làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Sau đó, bản án sơ thẩm bị Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM hủy để điều tra lại. Để tiếp tục tham gia tố tụng, ông phải tiếp tục làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa.
Nghị định cao hơn luật?
Theo luật sư Nguyễn Hồng Hà (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa), Điều 27 Luật Luật sư 2006 quy định: “Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật”. Tiếp đó, Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung 2012 cũng giữ nguyên quy định trên.
Như vậy, nếu thực hiện đúng Luật Luật sư thì giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị xuyên suốt các giai đoạn tố tụng nếu luật sư không bị thay đổi, không thuộc các trường hợp không được tham gia tố tụng. Tức là nếu luật sư đã được cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì VKS, TAND sau đó không cần phải cấp lại giấy chứng nhận nữa.
Thế nhưng cho đến nay, các cơ quan tố tụng các cấp vẫn yêu cầu luật sư làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho từng giai đoạn tố tụng. Sở dĩ có tình trạng này là do các cơ quan tố tụng không tuân thủ Luật Luật sư mà vận dụng hướng dẫn trong Nghị quyết số 03 ngày 2/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao (hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng hình 2003).
Theo nhiều luật sư, hướng dẫn trong Nghị quyết 03 chỉ nói tòa thay đổi người tiến hành tố tụng (thẩm phán, hội thẩm, thư ký tòa án), cấp lại cấp giấy chứng nhận người bào chữa nếu có căn cứ cho thấy người bào chữa có quan hệ thân thích với người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, không hiểu sao nó lại trở thành “thông lệ” để các cơ quan tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa “ngắt khúc” cho từng giai đoạn tố tụng.
“Chuyện mỗi giai đoạn tố tụng một giấy này là máy móc, không cần thiết, làm lãng phí thời gian, gây tốn kém cho luật sư, là rào cản cho quyền bào chữa của bị can, bị cáo, không phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp”, luật sư Nguyễn Thanh Lương (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre) khẳng định.
Theo luật sư Lương và luật sư Nguyễn Quang Mai (Đoàn Luật sư TP HCM), tới đây khi sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự, cần phải bổ sung quy định như Luật Luật sư là giấy chứng nhận người bào chữa có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Đồng tình, luật sư Nguyễn Hồng Hà đề xuất thêm: Chính phủ, TAND Tối cao cần sớm ban hành nghị định, nghị quyết hướng dẫn Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012, trong đó hướng dẫn cụ thể về việc cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư. “Nếu các luật và các văn bản hướng dẫn đều quy định thống nhất thì cơ quan tố tụng sẽ bắt buộc phải tuân thủ”, luật sư Hà nói.
Bỏ luôn giấy chứng nhận? Thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa đang trở thành điểm nóng trong vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của luật sư. Có lẽ chỉ ở nước ta mới còn tồn tại thủ tục này. Ngay cả ở Trung Quốc, vốn có mô hình tố tụng tương tự như Việt Nam cũng đã bãi bỏ việc này. Quyền bào chữa và quyền nhờ người bào chữa là quyền hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp. Luật sư là chủ thể để thực hiện chức năng tố tụng cơ bản, đó là chức năng bào chữa, có vị thế phản biện, đối trọng với chức năng buộc tội và xét xử. Do vậy, thủ tục quy định giấy chứng nhận bào chữa là rào cản, không phản ảnh vị thế bình đẳng. Mặt khác, mỗi giai đoạn tố tụng lại bắt làm thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa không những kéo dài thời gian giải quyết vụ án, hạn chế quyền tiếp cận vụ việc của luật sư mà còn thể hiện sự hành chính hóa thủ tục giấy tờ của cơ quan chức năng. Theo tôi, đã đến lúc cần thiết phải bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa. Theo đó, người bào chữa chỉ cần trình thẻ luật sư và giấy yêu cầu của khách hàng thì được tạo điều kiện ngay để thực hiện chức năng tố tụng và được hành nghề theo đúng quy định của pháp luật. Luật sư Phan Trung Hoài
Theo VNE
Đề xuất chỉ được nghe lén điện thoại khi VKS đồng ý
VKSND Tối cao đề xuất, các biện pháp trinh sát ảnh hưởng trực tiếp tới quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức như nghe lén điện thoại, đột nhập nhà riêng, mở bưu phẩm... chỉ được tiến hành sau khi có phê chuẩn của VKS.
Ngày 6/12, VKSND Tối cao tổ chức hội nghị toàn quốc tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và các luật, pháp lệnh về tổ chức của ngành kiểm sát. Hội nghị được tổ chức với quy mô lớn nhất từ trước tới nay, với thành phần từ viện trưởng VKSND cấp huyện trở lên...
Trình bày dự thảo tổng kết, Phó Viện trưởng VKSND Tối cao Hoàng Nghĩa Mai đã chỉ ra không ít vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Bộ luật này. Cụ thể, các chức năng cơ bản của tố tụng gồm buộc tội, bào chữa, xét xử chưa được xử lý đúng đắn. Vì vậy, vai trò, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể cũng như trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa được quy định hợp lý, rành mạch. Cơ quan điều tra chủ yếu trực thuộc hành pháp nên chưa đảm bảo tính độc lập trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm.
Bên cạnh đó, VKS được giao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng lại thiếu cơ chế thực thi. Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại được giao thêm những thẩm quyền nằm ngoài chức năng chính như quyền khởi tố vụ án, quyền xét xử vượt quá giới hạn truy tố của VKS.
VKS được giao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng lại thiếu cơ chế thực thi. Ảnh: PL TP HCM
Ngoài ra, quy định về căn cứ tạm giam chủ yếu dựa vào phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự dẫn tới tình trạng lạm dụng tạm giam. Các quy định về thời hạn tố tụng chưa phù hợp, vừa dẫn tới tùy tiện, vừa gây áp lực, khó khăn cho cơ quan tố tụng. Luật mới chỉ quy định về thủ tục tố tụng với người chưa thành niên phạm tội mà chưa có thủ tục với những người tham gia tố tụng khác cũng là người chưa thành niên...
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, báo cáo của VKSND Tối cao kiến nghị việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự tới đây, một mặt tiếp tục duy trì mô hình tố tụng thẩm vấn hiện hành, đồng thời tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng.
Chẳng hạn cơ quan điều tra, VKS có nhiệm vụ tìm kiếm cả chứng cứ buộc tội, gỡ tội một cách khách quan nhưng khẳng định chứng minh tội phạm là trách nhiệm của bên buộc tội (VKS, kiểm sát viên), còn chứng minh không phạm tội hoặc giảm tội, giảm hình phạt là quyền của bên bào chữa. Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, chủ yếu thông qua việc nghe các bên hỏi, tranh luận, đối đáp.
Để tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra như yêu cầu của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, VKSND Tối cao cho rằng cần sửa đổi các quy định để VKS nắm bắt kịp thời, đầy đủ tố giác, tin báo tội phạm trao cho VKS quyền trực tiếp xác minh tin báo khi xét thấy cần thiết như khi có khiếu nại về hoạt động của cơ quan điều tra, việc xác minh của cơ quan điều tra có vi phạm nghiêm trọng...
Trong mối quan hệ giữa VKS và cơ quan điều tra, hai phương án sửa đổi được đưa ra: Thứ nhất, VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố, quyết định đình chỉ điều tra bị can, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay vì chỉ phê chuẩn lệnh, quyết định của cơ quan điều tra như hiện hành. Thứ hai, cứ giữ như quy định hiện hành nhưng bổ sung cơ chế để VKS thực hiện tốt trách nhiệm phê chuẩn: Tăng thời hạn xem xét phê chuẩn, được quyền yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu hoặc giải trình, được tham gia hội đồng tuyển chọn điều tra viên các cấp...
Ngoài ra, VKSND Tối cao còn đề xuất mở rộng thẩm quyền điều tra của VKS như trong trường hợp phát hiện cơ quan điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc khi thấy cần thiết, thay vì chỉ điều tra tội phạm trong lĩnh vực tư pháp như hiện hành.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, dự thảo báo cáo của VKSND Tối cao cho rằng cần có cơ chế đảm bảo thực thi nguyên tắc có buộc tội mới có xét xử. Chẳng hạn, tăng tính chủ động cho kiểm sát viên thực hành quyền công tố. Nếu tại phiên tòa, kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố, tòa chỉ xét xử phần quyết định truy tố còn lại còn rút toàn bộ quyết định truy tố vụ án phải được đình chỉ.
Về trình tự xét hỏi, cần sửa đổi theo hướng việc xét hỏi chủ yếu do bên buộc tội và bên bào chữa thực hiện. Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử chỉ hỏi sau khi các bên đã hỏi xong mà thấy còn những vấn đề chưa rõ hoặc mâu thuẫn.
Để phân định rõ hơn thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan tố tụng và người trực tiếp tiến hành tố tụng, Bộ luật cần sửa đổi theo hướng thủ trưởng cơ quan điều tra, viện trưởng VKS chủ yếu thực hiện thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp. Đây là các quyền tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra hoạt động tố tụng phân công cán bộ tiến hành tố tụng thay đổi, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ hoặc trái luật của điều tra viên, kiểm sát viên.
Về thẩm quyền tố tụng tư pháp, cấp thủ trưởng chỉ ban hành các quyết định quan trọng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm đình chỉ, đình chỉ... hoặc quyết định hạn chế quyền tự do cơ bản của công dân như bắt, tạm giữ, tạm giam. Còn các quyết định tố tụng có tính chất phát hiện, làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho điều tra viên, kiểm sát viên thực hiện. Tương tự, với tòa án, chánh án chỉ thực hiện thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp. Còn lại các thẩm quyền tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, hiện thuộc chánh án hoặc phó chánh án thì chuyển cho thẩm phán được giao giải quyết án.
Ngoài ra, cũng cần điều chỉnh thẩm quyền của viện trưởng VKSND Tối cao, chánh án TAND Tối cao và viện trưởng VKS cấp tỉnh, chánh án TAND cấp tỉnh theo hướng chỉ tiến hành tố tụng trong những trường hợp đặc biệt nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ đồng cấp của lãnh đạo cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Như thế, các vụ ở VKSND Tối cao sẽ được chuyển thành các viện thực hành chức năng công tố và kiểm sát điều tra, có vị trí tố tụng tương ứng với các tòa chuyên trách của TAND Tối cao.
Nghe lén, đọc lén... phải được VKS phê chuẩn?
Một số vấn đề mới cũng được đưa ra trong lần tổng kết Bộ luật tố tụng hình sự lần này như xem xét sửa chế định chứng cứ theo hướng ngoài cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng, các chủ thể khác cũng có quyền thu thập, sử dụng chứng cứ mở rộng, coi băng ghi âm, ghi hình, dữ liệu điện tử và các phương tiện khác ghi lại dấu vết tội phạm... là nguồn chứng cứ.
VKSND Tối cao đề xuất bảo vệ tốt hơn quyền con người trong tố tụng hình sự theo hướng các biện pháp trinh sát ảnh hưởng trực tiếp tới quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức như nghe lén điện thoại, đột nhập nhà riêng, mở bưu phẩm... chỉ được tiến hành sau khi có phê chuẩn của VKS. Đồng thời, kết quả thu thập được từ hoạt động trinh sát mà có phê chuẩn của VKS thì được coi là chứng cứ. Ngoài ra, để đẩy mạnh tranh tụng, có thể bổ sung quy định trong trường hợp cần thiết, tòa có quyền triệu tập điều tra viên đến phiên xử để diễn giải quá trình thu thập chứng cứ của vụ án...
Theo VNE
Núp bóng du lịch sinh thái để ‘lật đổ chính quyền’ Ông Thu và 21 người khác được cho là đã núp bóng doanh nghiệp hoạt động du lịch sinh thái để lập căn cứ địa, "thực hiện việc đấu tranh lật đổ chính quyền Nhà nước Việt Nam". Ngày 8/10, Viện KSND tỉnh Phú Yên đã hoàn tất cáo trạng, chuyển hồ sơ vụ án sang tòa cùng cấp để đưa ra xét...